Với phương châm tác chiến: “đánh chắc, tiến chắc”, tinh thần “Quyết chiến, quyết thắng”, trong 56 ngày đêm chiến dịch bộ đội ta đã tiến công tiêu diệt lần lượt từng cứ điểm, từng trung tâm đề kháng của tập đoàn cứ điểm, bao vây và buộc địch phải đầu hàng vào chiều ngày 7/5/1954.
70 năm đã trôi qua, chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra từ ngày 13/3 đến ngày 7/5/1954 là một trong những chiến công vang dội nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thể hiện rõ nét tài thao lược kiệt xuất của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, để lại cho các thế hệ hiện nay và mai sau một mốc son rực sáng trong lịch sử chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Tháng 7/1953, sau gần 8 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trở lại Đông Dương, tướng Nava - người mới được bổ nhiệm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, đề ra kế hoạch quân sự mới (còn gọi Kế hoạch Nava), gồm hai bước:
Bước một, từ Thu Đông năm 1953 và Xuân năm 1954: giữ thế phòng ngự chiến lược ở chiến trường miền Bắc, tránh giao chiến với lực lượng chủ lực đối phương; tiến công chiến lược ở chiến trường phía Nam, đánh chiếm các căn cứ kháng chiến của Việt Minh; tăng cường càn quét, bắt lính để mở rộng quân đội ngụy tay sai, tập trung xây dựng khối chủ lực tác chiến cơ động.
Bước 2, từ Thu Đông năm 1954): dồn toàn lực ra chiến trường miền Bắc, thực hiện các đòn tiến công chiến lược quy mô lớn, giành thắng lợi quyết định, tiêu diệt chủ lực đối phương, buộc chính phủ kháng chiến phải đầu hàng, hoặc chấp nhận kết thúc chiến tranh theo những điều kiện có lợi cho phía Pháp.
Với sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân đánh phá, càn quét bình định, ra sức bắt lính; đồng thời rút bớt nhiều đơn vị tinh nhuệ từ các chiến trường khác để tăng cường vào Đông Dương. Chỉ sau một thời gian ngắn, địch đã xây dựng được khối chủ lực mạnh, bao gồm 84 tiểu đoàn cơ động, trong đó tập trung 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ. Tự tin vào khối quân chủ lực hùng mạnh của mình, tướng Nava đã chuẩn bị tâm thế sẵn sàng “nghiền nát các đơn vị chủ lực đối phương ở bất cứ nơi nào”, từ đó nêu cao khẩu hiệu “luôn luôn chủ động”, “luôn luôn tiến công.”
Về phía thực dân Pháp, tháng 11/1953, phát hiện các đơn vị chủ lực của ta tại Tây Bắc, tướng Nava cho 6 tiểu đoàn Âu-Phi tinh nhuệ nhảy dù xuống Điện Biên Phủ - một thung lũng phì nhiêu dài 18 km, rộng 6-8 km của tỉnh Lai Châu với mục tiêu ban đầu nhằm giữ vùng Tây Bắc, Thượng Lào. Sau khi nắm bắt lại tình hình, Nava nhận định rằng Điện Biên Phủ là nơi rất phù hợp xây dựng căn cứ quân sự mạnh, dễ phòng thủ; khả năng bảo đảm hậu cần tiếp tế đường không thuận lợi do không gian thung lũng quanh căn cứ tương đối rộng, địa hình dễ xây dựng sân bay.
Mặt khác, lực lượng kháng chiến (Việt Minh) nếu mở trận đánh lớn tại Điện Biên Phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn do xa hậu phương, tiếp tế khó khăn, khả năng sử dụng lực lượng có hạn, không thể dùng được pháo cơ giới.
Từ nhận định đó, ngày 3/12/1953, tướng Nava và bộ chỉ huy quân sự Pháp quyết định điều động tăng cường thêm 6 tiểu đoàn lên Điện Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm thu hút và đánh bại chủ lực đối phương.
Đến đầu tháng 3/1954, quân địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên đến 16.200 tên, gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân thuộc loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá Điện Biên Phủ là “pháo đài không thể công phá,” công khai thách thức đối phương tiến công.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Đảng ủy Mặt trận kiểm tra lại tình hình, bảo đảm chắc thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được.”
Sau khi kiểm tra, cân nhắc lại tình hình mọi mặt, Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy đã đề xuất xin ý kiến Bộ Chính trị chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” (thông qua từ trước đó) sang phương án “đánh chắc, tiến chắc” để bảo đảm thắng lợi. Đề xuất này được Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng ý thông qua.
Tổng quân số điều động tham gia chiến đấu tại Điện Biên Phủ lên đến 55.000 quân, bao gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và 27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp cùng bộ đội công binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau một thời gian ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa chữa.
Về chiến thuật, Bộ chỉ huy chiến dịch đề ra phương pháp tổ chức đánh từng bước, tập trung binh lực nhằm tạo ra ưu thế lớn để tiêu diệt từng trung tâm đề kháng của địch.
Để giảm sức mạnh hỏa lực của địch, phát huy sức mạnh hỏa lực của ta, ta tổ chức xây dựng hệ thống giao thông hào, hệ thống trận địa tiến công và bao vây, tạo điều kiện cho bộ đội triển khai vận động ngay dưới bom đạn địch; đưa pháo binh vào gần để khống chế sân bay; pháo cao xạ tích cực đối phó có hiệu quả với không quân địch. Bằng những phương pháp đó, ta sẽ ngăn chặn dần và đi đến triệt nguồn tiếp viện của địch tại Điện Biên Phủ.
Sau khi hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch. Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ, ngày 7/5/1954, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống tướng chỉ huy De Castries.
Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, là chiến công oanh liệt đỉnh cao trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi này đã tác động mạnh mẽ đến bàn hội nghị Hội nghị Geneva (khai mạc ngày 26/4/1954), buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva (ngày 21/7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương; mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp cách mạng dân tộc.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu diệt địch phòng ngự trong công sự vững chắc, các đơn vị của ta đã thực hiện xuất sắc tiêu diệt gọn quân địch về chiến thuật, tiêu diệt lớn về chiến dịch và chiến lược,. Đó còn là lòng dũng cảm của những chiến sỹ đêm ngày bền gan, vững chí: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Chiến sĩ anh hùng/ Đầu nung lửa sắt/ Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” làm nên Chiến thắng lịch sử “chấn động địa cầu”.
Kết thúc Chiến dịch, ta đã tiêu diệt và bắt sống hơn 16.200 tên địch gồm 21 tiểu đoàn, trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh cơ động chiến lược, phá hủy, thu hồi nhiều vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh, giáng đòn quyết định đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Thắng lợi lừng lẫy của Chiến dịch đã để lại nhiều bài học quý cả về lý luận và thực tiễn, khẳng định sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp; trong đó, tạo lập thế trận chiến dịch là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc.
Góp phần làm lên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tỉnh Hải Dương có 402 liệt sĩ ở 12 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Hải Dương. Trong đó, huyện Gia Lộc có 78 liệt sĩ, huyện Kim Thành có 49 liệt sĩ, huyện Ninh Giang có 47 liệt sĩ, Thanh Miện có 44 liệt sĩ, Nam Sách có 31 liệt sĩ... Các liệt sĩ đều hy sinh năm 1954, tại đồi A1, sân bay Điện Biên, đồi Độc Lập, Hồng Cúm, Mường Thanh, đồi A2, đồi Xám Nấm... Trong đó, có 471 thương binh, bệnh binh, quân nhân trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, có 49 người là thương binh, bệnh binh, mất từ 70% sức khỏe trở xuống; 94 người được các địa phương xác định sức khỏe tốt, còn lại đã yếu. Trong đó, Quân nhân phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ cao tuổi nhất hiện nay là nhà sư Thích Đàm Thảo (sinh năm 1917), ở thôn Thiện Trang, xã Thanh Xuân (Thanh Hà), trụ trì chùa Xuân Áng. Nhà sư Thích Đàm Thảo hiện sức khỏe yếu, nằm liệt giường. Khi tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, cụ là y tá, có cấp bậc binh nhất.
TP. Hải Dương có 65 người thương binh, bệnh binh, quân nhân trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ nhất tỉnh Hải Dương, đang sinh sống trên địa bàn, tiếp đến là Kim Thành (61 người), thị xã Kinh Môn (53 người), Gia Lộc (51 người). Ninh Giang và Tứ Kỳ mỗi huyện còn 26 người. Huyện Bình Giang chỉ còn lại 17 người, ít nhất tỉnh...
Chiến thắng Điện Biên Phủ là hiện thân của những giá trị cao đẹp nhất về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Đó là tinh thần của cuộc chiến đấu “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, ý chí chiến đấu kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì sự độc lập và trường tồn của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng là nhân tố tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần, tạo động lực to lớn để quân và dân vượt mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh - “lấy thân mình làm giá súng”, “băng mình qua lũy thép gai”, “lấy thân mình chèn pháo”,… và đi đến thắng lợi cuối cùng.
Bài của Nguyễn Thị Nga
Đăng trên Bản tin Khoa học và Công nghệ Hải Dương số 1 ra tháng 4 năm 2024