Thành tựu vĩ đại của phong trào nông dân Tây Sơn là đã bước đầu thống nhất được đất nước, sau một thời gian dài bị chia cắt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đây cũng là lần đầu tiên toàn bộ đường bờ biển kéo dài từ vịnh Bắc Bộ đến các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tới các đảo khác trên Biển Đông đã thuộc về quyền kiểm soát của Nhà nước Việt Nam.
Giống như các chúa Nguyễn trước đó, triều đại Tây Sơn của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ tiếp tục tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ chủ quyền và khai thác các vùng quần đảo ở Biển Đông. Đội Hoàng Sa được ấn định số lượng 70 xuất, chọn toàn người xã An Vĩnh (Quảng Ngãi), Hàng năm cứ vào tháng 2, đội xuất hành gồm 5 chiếc thuyền ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm những gì có giá trị của tàu bị nạn, tìm kiếm, khai thác hải vật và ở lại đó đến tháng 8 mới trở về nộp cho triều đình Phú Xuân. Đội Bắc Hải tuyển người xã Cảnh Dương (tỉnh Bình Thuận) nhưng không cố định số xuất thủy thủ như đội Hoàng Sa.
Vào ngày 15 tháng Giêng năm 1776, cai hợp phường Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn) là Hà Liễu đã làm đơn trình bày: “Bây giờ chúng tôi lập hai đội như cũ ra đảo, cù lao ngoài biển nhặt vật đồng, thiếc, hải ba, đồi mồi… được bao nhiêu xin dâng nạp. Chúng tôi vững lòng ứng biến nếu có kẻ xâm phạm”. Tờ đơn đã được chính quyền Tây Sơn xem xét chuẩn y, hiện vẫn còn lưu giữ ở nhà thờ họ Võ, phường An Vinh (nay là thôn Tây, xã Lý Vinh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi).
Cũng tại nhà thờ họ Võ, ngày nay còn giữ được chỉ thị ngày 14 tháng 2 năm thứ 9 hiệu Thái Đức (1786) của Thái phó Tổng Lý quản binh dân chư vụ Thượng tướng công: “Sai cai đội Hoàng Sa luôn xem xét đốc xuất trong đội cắm biển hiệu thủy quân, cưỡi 4 chiếc thuyền vượt biển thẳng tiến Hoàng Sa cùng các xứ cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng bạc, đồng và các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, hải ba, đá quý…đều chở về kinh nộp theo lệ. Nếu ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy bớt các vật quý, hoặc sinh sự với dân làm muối, làm cá đều sẽ bị trị tội”. Ngoài ra còn có bản Ngự phê lời tâu của dân xã An Vinh về việc dâng nộp các loại đồi mồi, hải ba, quế hương và xin miễn sưu dịch, đã được thánh chỉ ban thưởng vàng. Văn bản chép: “Niên hiệu Thái Đức năm đầu tiên đến năm thứ 15 (1778 - 1792) và niên hiệu Cảnh Thịnh năm đầu đến năm thứ 9 (1793 - 1801). Khi ấy John Brrow là phái viên của phái bộ Macar tney đi từ Anh sang Trung Quốc có ghé qua khu vực Đà Nẵng vào tháng 6 năm 1793 dưới triều vua Quang Toản (con trai thứ của vua Quang Trung). Trong tác phẩm “Một chuyến du hành tới xứ Đàng Trong 1792 - 1793) đã mô tả: “Tàu thuyền xứ Đàng Trong có nhiều kiểu dáng khác nhau được dùng vào việc buôn bán ven biển, chài lưới, thu lượm hải sản và tổ yến trong nhóm quần đảo gọi là Paracels” (Hoàng Sa).
Từ những tư liệu hiện có, đã xác định được chủ quyền trên các quần đảo ngoài Biển Đông thời Tây Sơn. Thời ấy tình hình nước Trung Hoa rất phức tạp, nhiều người chống đối nhà cầm quyền Mãn Thanh đã phải phiêu bạt trên Biển Đông. Triều Tây Sơn đã ban nhiều tờ chiếu khuyến dụ lực lượng này quy thuận. Chiếu dụ Tàu Ô viết dưới thời Quang Trung từng vạch rõ: Họ (dân Tàu) ra vào nơi bể nước (Biển Đông) tự tập đồ đảng lấy việc cướp bóc làm kế sinh nhai, phần vì những chính sách bạo ngược (của nhà Thanh) xua đẩy, phải xem xét nguyện vọng của từng người, trong đó có những người muốn xông pha nơi ngọn sóng vùng hải đảo. Qui tụ những người Trung Hoa phiêu bạt trên Biển Đông và sử dụng họ tham gia vào công việc như người Việt Nam, là chính sách quan trọng mang tính chiến lược của vương triều Tây Sơn.
Sách Thánh Vũ Ký của Ngụy Nguyên (1 - 1857) cho biết: Có nhiều người Trung Hoa làm nội ứng cho Việt Nam, được chúa An Nam (Quang Toản) phong cho chức tước như Trần Thiên Bảo, vốn là giặc biển Tàu Ô đã quy thuận. Cũng trong cuốn sách này, Ngụy Nguyên mô tả chiến thuyền của quân Tây Sơn cao, to hơn thuyền Trung Hoa, trên có nhiều súng hoành hành lâu năm trên mặt biển, nếu quân nhà Thanh đối địch sẽ phải thua. Đây là một trong những bằng chứng khẳng định lực lượng hải quân Tây Sơn trong thực tế đã kiểm soát được các tuyến giao thông trên biển và là chủ nhân của các vùng đảo, quần đảo giữa Biển Đông.
Sau triều đại Tây Sơn, nhà Nguyễn tiếp tục chính sách tiến ra Biển Đông. Thời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị… đã thực thi chủ quyền bằng các hình thức: vãn thám, kiểm tra, kiểm soát, khai thác các vật và hải sản, tổ chức thu thuế, cứu hộ, cứu nạn, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu lại để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại nhận biết. Những đóng góp quan trọng của nhà Nguyễn, thế kỷ XIX vào lịch sử chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở Biển Đông là sự tiếp nối chính sách của triều đại Tây Sơn ngày ấy.
Bài của Quỳnh Nga
Đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hải Dương số 1 ra tháng 2 năm 2017