Mười ba danh sĩ tuổi Dậu

Tuổi Dậu trong lịch sử Việt Nam từ xưa tới nay có rất hàng ngàn danh sĩ, trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhà quân sự tên tuổi lẫy lừng. Trong phạm vi một bài biên khảo các nhân vật tiêu biểu tuổi con gà, nhân dịp năm mới Đinh Dậu - 2017, tác giả chỉ mạn phép nêu 13 danh sĩ tiêu biểu tuổi Dậu của khắp ba miền Bắc - Trung - Nam, được người đời tôn vinh …
Mười ba danh sĩ tuổi Dậu

1. Thái Thuận: Sinh năm Tân Dậu, quê ở Bắc Ninh, là nhà thơ, danh sĩ thời Lê sơ, bút hiệu Lục Khê, Lã Đường. Lớn lên từ một gia đình có cha làm quan võ triều đình, ông theo đường khoa cử, đỗ tiến sĩ năm 1475, làm quan ở Hàn lâm viện và Tham Chánh sứ Hải Dương. Nhiệt tình, lại nổi tiếng văn chương, ông trở thành một trong 28 thành viên của Hội thơ Tao Đàn trứ danh do vua Lê Thánh Tông sáng lập. Ông là thi sĩ xuất chúng của làng thơ Việt Nam đương thời, tác giả tập Lã Đường di thảo đặc sắc với 264 bài thơ về nhiều chủ đề, ngôn ngữ thơ ông khoáng đạt, độc đáo, được nhiều người ghi nhớ, truyền tụng.

2. Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748): Sinh năm Ất Dậu, quê Hải Dương, nữ sĩ thời Lê mạt, bút hiệu Hồng Hà. Xinh đẹp, tài hoa, lại thuộc dòng dõi quý tộc, giỏi văn thơ, được triều đình cho làm Giáo thụ, dạy các cung tần, mỹ nữ. Năm 1739, đất nước loạn lạc, bà trở về quê và kết hôn với tiến sĩ Nguyễn Kiều, cùng chồng dạy học và sáng tác. Bà để lại nhiều bài thơ tràn trề tình cảm, da diết, u hoài trong tập Truyền kỳ tân phả. Bản dịch tác phẩm Chinh phụ ngâm của bà được đánh giá là công trình dịch thuật từ thơ Hán ra thơ Nôm hoàn hảo nhất đến ngày nay.

3. Nguyễn Gia Thiều (1741 - 1789): Sinh năm Tân Dậu, quê Bắc Ninh, là nhà thơ, nhà văn hóa, danh thần thời Lê mạt, bút hiệu Tân Trai, Hy Tôn Tử, Như Ý Thiền Siêu Chân, Tân Thị Viện Tử, Sơn Thủy Nhân Hoa. Ông có cuộc sống rất bản lĩnh, văn võ song toàn, 18 tuổi đã làm Hiệu Úy, 30 tuổi làm Tổng binh, thống lĩnh quân đội, giúp vua dẹp loạn, an dân. Ông tinh thông văn học, triết học, sử học, âm nhạc, hội họa và kiến trúc. Là tác giả nhã nhạc cung đình. Tác giả bức tranh nổi tiếng Tống Sơn đồ. Về kiến trúc, ông được chúa Trịnh tin giao việc trang hoàng phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích. Về thơ ca, ông sáng tác Cung oán ngâm khúc và 3 tập thơ: Tân Trai thi tập, Tiền hậu thi tập, Tây hồ thi tập.

4. Ngô Thì Chí (1753 - 1788): Sinh năm Quý Dậu, quê Hà Tây (nay là Hà Nội), là danh sĩ thời Lê Mạt, bút hiệu Uyên Mật. Nhiều nghị lực, giỏi văn chương, đỗ hương tiến, làm quan đến chức Thiêm Thư Bình chương tỉnh sự, tận tụy phục vụ triều Lê. Ông dành nhiều thời gian dạy học, sáng tác thơ ca và nghiên cứu văn hóa, để lại các tác phẩm giá trị như: Quốc sử tiệp lục, học thi thi tập, Học văn thi tập và Hoàng Lê nhất thống chí.

5. Nguyễn Du (1765 - 1820): Sinh năm Ất Dậu, quê ở Hà Tĩnh, là danh sĩ thời Nguyễn sơ, bút hiệu Thanh Hiên. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng rất nghị lực, mẫn cảm, thông minh hơn người, làm quan triều Nguyễn, được thăng chức Hữu Tham tri Bộ Lễ và từng dẫn đoàn đi sứ Trung Quốc năm 1813. Sáng tác Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục…Đặc biệt là tuyệt tác Truyện Kiều với thể thơ lục bát, ngôn ngữ tài hoa, tinh tế và thấm đẫm tinh thần nhân văn đã đưa ông trở thành thi sĩ vĩ đại nhất trong lịch sử thơ ca Việt Nam.

6. Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825): Sinh năm Ất Dậu, quê Đồng Nai, nhà thơ, nhà sử học, danh thần thời Nguyễn sơ, bút hiệu Cấn Trai. Văn võ song toàn, phong thái mạnh mẽ, năm 1788 thi đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan, được triều đình trọng dụng, phong tới Thượng thư Bộ Lễ kiêm Bộ Hình, Phó Tổng tài Quốc sử quán. Ông là nhân vật chính của Hội thơ Bình Dương nổi tiếng ở Miền Nam với nhiều thi phẩm bình dị, phóng khoáng, được nhiều người ngưỡng mộ. Các tác phẩm giá trị như: Gia Định thành thông chí, Cấn Trai thi tập, Bắc sứ thi tập…

7. Đặng Huy Trứ (1825 - 1874): Sinh năm Ất Dậu, quê ở Huế, là nhiếp ảnh gia, danh sĩ đời Thiệu Trị, Tự Đức, bút hiệu Hoàng Trung. Từ bé đã nổi tiếng thần đồng, thi đỗ Hương Nguyên, là quan thanh liêm của triều đình Huế, được thăng tới chức Ngự sử. Ông được triều đình Huế cử đi sứ nhiều nước như Trung Quốc, Thái Lan, Triều Tiên, có công đầu trong việc du nhập, truyền bá nghệ thuật nhiếp ảnh vào Việt Nam. Không chỉ là thủy tổ của ngành nhiếp ảnh nước ta, ông còn là tác giả của nhiều công trình văn thơ, lịch sử, triết luận quy mô như: Hoàng Trung thi văn sao, Khang Hy canh chức đồ, Tứ thập bát hiếu kỷ sự tân biên, Việt sử thanh huấn diễn nghĩa, Nữ giới diễn ca ...

8. Nguyễn Trung Nguyệt (1909 - 1976): Sinh năm Kỷ Dậu, quê Bến Tre, là nữ sĩ cách mạng, bút danh Bảo Lương. Giàu năng khiếu văn chương. Sôi nổi, nhiệt tình yêu nước. Từ năm 1926, bà là thành viên Việt Nam Thanh niên cách mạng Đồng chí hội, tham gia viết cho báo Thanh Niên của Tổng bộ. Năm 1929, về nước hoạt động cách mạng, từng bị Pháp bắt giam. Bà để lại sự nghiệp văn thơ đồ sộ gồm nhiều bài chính luận và hơn 3.000 bài thơ đầy nhiệt huyết, lãng mạn, mang tính nhân văn, tính chiến đấu cao.

9. Nguyễn Đức Nguyên (1909 - 1982): Sinh năm Kỷ Dậu, quê Nghệ An, là nhà văn hóa, nhà phê bình văn học, bút danh Hoài Thanh. Lúc nhỏ học ở Vinh, Huế…sau làm việc và dạy học tại Huế, nhiệt tình nghiên cứu văn hóa dân tộc. Sau năm 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, Mỹ, đóng góp xuất sắc cho lĩnh vực văn học nghệ thuật cách mạng. Với ngòi bút đầy mạnh mẽ, hiện đại, sáng tạo, sắc sảo, ông được đánh giá là nhà phê bình văn học số một Việt Nam và là nhà nghiên cứu văn hóa kỳ cựu, thể hiện qua nhiều tác phẩm gây tiếng vang lớn: Văn chương và hành động; Thi nhân Việt Nam; Có một nền văn hóa Việt Nam; Nói chuyện thơ kháng chiến, Nam Bộ mến yêu; Phê bình và tiểu luận; Phan Bội Châu; Chuyện thơ; Tuyển tập Hoài Thanh …

10. Lưu Quang Thuận (1921 - 1981): Sinh năm Tân Dậu, quê Quảng Nam, nhà thơ, nhà soạn kịch. Sinh trưởng trong một gia đình trí thức, thủa nhỏ học ở Đà Nẵng, Huế. Từ năm 1937, vào Nam bộ, vừa mưu sinh vừa sáng tác văn chương đăng trên báo chí Sài Gòn. Năm 1943 ra Hà Nội, tiếp tục viết báo, làm thơ, soạn kịch. Từ năm 1946 tham gia kháng chiến, sáng lập Tạp chí Sân khấu và Nhà xuất bản Hoa Lư, từng làm Giám đốc Việt Nam thư ấn cục và công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông là nhà soạn kịch nổi tiếng với nhiều vở kịch thơ lịch sử đặc sắc, được khán thính giả hâm mộ: Lữ Gia, Yến Ly, Lê Lai đổi áo, Phượng Trì thôn, Kiều Công Tiễn, Tấm Cám, Người Hoa Lư, Mối tình Điện Biên… Ông cũng là thi sĩ với các tập thơ nổi tiếng như: Tóc thơm, Việt Nam yêu dâu, Mừng đất nước, Cám ơn thời gian…

11. Bùi Đình Diệm (1921 - 1988): Sinh năm Tân Dậu, quê Hà Tây (nay là Hà Nội), nhà thơ, bút danh Quang Dũng. Năng động, yêu nước, tham gia cách mạng tháng Tám rồi vào bộ đội chiến đấu khắp chiến trường Bắc Bộ và say mê sáng tác thi ca. Bút pháp tài hoa, tình cảm sâu đậm với quê hương đất nước đã giúp ông tạo nên nhiều tác phẩm thơ tràn đầy lạc quan, lãng mạn, hùng tráng như: Tây Tiến, Đôi bờ, Đường trăng, Đôi mắt người Sơn Tây… Sau kháng chiến, ông về ngành văn hóa, cán bộ biên tập Nhà xuất bản Văn học. Các tập thơ: Một chặng đường Cao Bắc, Gương mặt Hồ Tây, Nhà đồi, Hoa lại vàng tháng chạp, Phiên chợ Bắc Hà, Mùa chim ngói dưới chân núi Ba Vì.

12. Bùi Xuân Phái (1921 - 1988): Sinh năm Tân Dậu, quê Hà Tây (nay là Hà Nội), họa sĩ sơn dầu. Xuất thân từ làng tranh Kim Hoàng, học ở Hà Nội, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1945, chuyên vẽ tranh sơn dầu chủ đề phố phường. Là người sáng tạo, tranh vẽ của ông đều có nét dị biệt, mang đậm truyền thống nhưng rất hiện đại. Các bức Cánh võng, Văn Miếu, Ô Quan Chưởng, phố cổ Hội An... đã được giới am tường nghệ thuật trong và ngoài nước đánh giá cao. Đề tài ông vẽ đã trở thành một trường phái hội họa đặc trưng của Việt Nam với tên Phố Phái.

13. Lưu Hữu Phước (1921 - 1989): Sinh năm Tân Dậu, quê ở Cần Thơ, là nhạc sĩ, viện sĩ, bút danh Huỳnh Minh Siêng. Lúc nhỏ học ở Cần Thơ, Sài Gòn, đến năm 1940 ra Hà Nội học Đại học Y Dược. Cách mạng tháng Tám 1945, ông vào Sài Gòn tham gia hoạt động văn hóa xã hội, sáng tác nhiều bài hát ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam, cổ vũ lòng yêu nước trong thanh niên như: Hội nghị Diên Hồng, Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hồn tử sĩ, Tiếng gọi thanh niên… Năm 1965 vào chiến trường Nam Bộ, viết ca khúc Giải phóng Miền Nam nổi tiếng, giữ chức Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin trong Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam (1969). Sau năm 1975, làm Viện trưởng Viện Âm nhạc và năm 1986 được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Đông Đức phong Viện sĩ Thông tấn âm nhạc./.
Bài của Nguyễn Tấn Tuấn
Đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hải Dương số 1 ra tháng 2 năm 2017


Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây