Đến nay Công ty Cổ phần Giống cây trồng Hải Dương đã mua bản quyền giống lúa SHPT3; chủ động được công nghệ duy trì và nhân dòng, sản xuất giống phục vụ cho mô hình đề tài và bước đầu cung ứng làm mô hình mở rộng diện tích tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh, SHPT3 đáp ứng được năng suất, chống chịu sâu bệnh, điều kiện ngoại cảnh tốt, đặc biệt gạo SHPT3 đưa đi làm thử bún, bánh đa tại các làng nghề truyền thống cho chất lượng cao, đem lại hiệu quả kinh tế cho người sản xuất lúa, từng bước bổ sung được giống lúa mới vào sản xuất đại trà.
Trong 2 năm 2017 - 2018, được sự cho phép của UBND tỉnh, Công ty Cổ phần giống cây trồng Hải Dương đã xây dựng mô hình sản xuất trình diễn giống lúa mới SHPT3 chịu ngập, năng suất cao tại các vùng hay ngập úng (chua trũng) trên địa bàn tỉnh Hải Dương với tổng diện tích 450 ha/2 năm tại 7 điểm gồm huyện Tứ Kỳ, Ninh Giang, Kinh Môn, Nam Sách, Kim Thành, TP.Chí Linh và TP.Hải Dương.
Trong 2 năm 2017 - 2018, Ban chủ nhiệm đề tài triển khai đã chuyển giao tập huấn kỹ thuật cho người dân, cấp phát tài liệu, quy trình đảm bảo theo đúng tiến độ nội dung đề tài tại 15 điểm, quy mô 450 ha/2 năm, tập huấn chuyển giao kỹ thuật được 30 lớp với trên 2.500 lượt người tham gia. Qua lớp tập huấn các hộ nông dân đã nắm bắt và tiếp thu được tiến bộ kỹ thuật (TBKT) giống lúa mới SHPT3, quy trình kỹ thuật gieo cấy áp dụng vào mùa vụ tại địa phương thực hiện việc chăm sóc lúa đảm bảo cây lúa sinh trưởng phát triển tốt, năng suất cao và đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt cho người trồng lúa.
Vụ xuân 2017, mô hình triển khai thực hiện quy trình 01 gieo vãi tại xã Kiến Quốc (Ninh Giang) thời gian sinh trưởng 125 ngày. Mô hình áp dụng qui trình gieo mạ trên sân, tuổi mạ 10 - 12 ngày tương đương 2,5 - 3 lá tại xã Minh Hòa (Kinh Môn), xã Thượng Vũ (Kim Thành), xã Quảng Nghiệp (Tứ Kỳ) và phường Chí Minh (TP.Chí Linh), thời gian sinh trưởng từ 130 - 135 ngày, dài hơn đối chứng TBR 225 (127 ngày), KD18 từ 3 - 6 ngày. Giống lúa mới SHPT3 cho năng suất thực thu đạt từ 69 - 75 tạ/ha, cao hơn đối chứng từ BC15, KD 18 từ 10,1 - 25,3%.
Vụ Mùa 2017, giống lúa SHPT3 thời gian sinh trưởng là 110 ngày, dài hơn đối chứng KD18 là 3 ngày. Giống lúa SHPT3 chống chịu tốt với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh như: sâu cuốn lá, đục thân, rầy nâu, bệnh bạc lá; chịu nóng, chịu rét, chống đổ hơn hẳn so với các đối chứng KD18, Q5, TBR 225, BC 15.
Giống lúa SHPT3 bị ngập sâu từ 5 - 7 ngày sau khi nước rút có tỷ lệ cây sống đạt cao từ 96,5 - 98,5% do có mang gen chịu ngập Sub-01, năng suất giữ ổn định đạt từ 54 - 60,3 tạ/ha, cao hơn đối chứng từ 15 - 48,3%, bởi vụ mùa 2017 các giống lúa khác bị nhiễm rầy nâu, rầy lưng trắng.
Vụ Xuân 2018, giống lúa SHPT3 có khả năng chống chịu sâu bệnh, điều kiện ngoại cảnh tốt hơn so với các đối chứng KD18, TBR225, BC15, Q5. Năng suất thực thu đạt từ 71 - 81,7 tạ/ha và cao hơn đối chứng Khang dân 18 từ 15,5 - 24,1%.
Vụ Mùa 2018, giống lúa SHPT3 có thời gian sinh trưởng từ 95 - 110 ngày, tương đương và dài hơn đối chứng Q5, KD 18 từ 3 - 5 ngày, năng suất thực thu đạt từ 65 - 73 tạ/ha.
Giống lúa mới SHPT3 tại 15 điểm/5 huyện, 2 thành phố trong 2 năm với qui mô 450 ha, trong đó năm 2017 là 150 ha, năm 2018 là 300 ha; giống SHPT3 được bố trí gieo cấy theo khung thời vụ của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hải Dương ban hành và khung thời vụ tốt nhất tại địa phương, ngoài ra có tham khảo quy trình gieo cấy ban đầu tác giả và điều chỉnh thời vụ, mật độ, phân bón cho phù hợp với điều kiện sản xuất lúa tại Hải Dương. Ban chủ nhiệm đã cấy thử nghiệm giống lúa mới SHPT3 trên nhiều loại chân đất khác nhau từ: chân vàn, vàn cao, vàn trũng và trũng chua, hay ngập úng đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt cho người sản xuất nông nghiệp tại các điểm triển khai mô hình. Sơ bộ hạch toán kinh tế người dân đã thu về từ 1,5 - 1,8 triệu đồng/sào, tương đương 41 - 50 triệu đồng/ha, cao hơn từ 1,5 - 2 lần so với cấy giống lúa KD 18, Q5 truyền thống. Điều đặc biệt là giống đã đáp ứng cho nhu cầu gạo chế biến, nên tiêu thụ dễ dàng, hàng sáo, các công ty Lương thực tự tìm đến bao tiêu sản phẩm, lượng hàng chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Qua tìm hiểu toàn tỉnh hiện có 7 làng nghề chuyên làm bún và bánh đa, với trên 1.600 hộ gia đình trực tiếp tham gia sản xuất. Ước tính mỗi năm, các làng nghề này tiêu thụ từ 600 đến 800 nghìn tấn gạo thương phẩm, riêng hộ tư nhân anh Quỳnh, chị Dịu tại khu Xuân Dương, phường Tứ Minh, thành phố Hải Dương (làng Lộ Cương cũ), lắp 2 dây truyền sản xuất bánh đa tự động, cần 10 tấn gạo/ngày, dây truyền được làm quanh năm đủ 12 tháng, bánh đa đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, được tiêu thụ hết trong ngày, thị trường mở rộng tại các tỉnh, thành phố trong cả nước. Trước đây, nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất bún và bánh đa là gạo của giống lúa Khang Dân 18, Q5 và VN 10, DT 10. Song, do nguồn nguyên liệu cho chế biến thường không ổn định về chất lượng gạo, những giống lúa khác không sản xuất được nên nguồn nguyên liệu tại chỗ nhiều khi thiếu hụt cho nhu cầu sản xuất của các làng nghề. Từ khi giống lúa mới SHPT3 được gieo trồng, Công ty CP Giống cây trồng Hải Dương đã mua gạo đem thử tại làng nghề bún, bánh đa Lang Khê, xã An Lâm (Nam Sách), làng bánh đa Lộ Cương, phường Tứ Minh, TP.Hải Dương cho thấy chất lượng bún, bánh đa tốt hơn hẳn so với các loại gạo truyền thống KD18, Q5, VN 10 đang dùng, như độ giòn, dai, độ bóng, ăn có độ béo, ngậy, đặc trưng, chất lượng bún, bánh đa bảo quản lâu hơn không bị chua, do đó nhu cầu gạo chế biến từ giống lúa SHPT 3 ngày càng được nhiều hơn, đây là tín hiệu vui cho bà con người trồng lúa tại tỉnh Hải Dương.
Sau 2 năm triển khai mô hình sản xuất trình diễn với quy mô 450 ha/2 năm, cho thấy, giống lúa SHPT3 gieo cấy 2 vụ/năm, sinh trưởng, phát triển khỏe, đẻ nhánh tập trung thể hiện vượt trội về năng suất và khả năng chống chịu như: chống đổ tốt, chịu chua, trũng; chống chịu tốt với sâu cuốn lá, đục thân và rầy nâu, bệnh bạc lá, đạo ôn.v.v …Gạo SHPT3 phục vụ cho chế biến sản xuất hàng hóa tập trung bún, bánh đa tại các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hải Dương cho lãi 18.312.000 đồng, giống lúa Khang dân 18 đối chứng so sánh lãi 9.574.800 đồng, chênh lệch so với đối chứng 8.737.200 đồng, tăng hơn 91,2%.
Bài của ThS. Nguyễn Hữu Hỷ
Đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hải Dương số 4 ra tháng 8 năm 2019