Mặc dù Luật KH&CN 2013 được xây dựng với nhiều nội dung đổi mới. Nhưng trên Thực tế, Luật KH&CN 2013 có phát huy được vai trò của mình trong các hoạt động KH&CN, có tạo ra những biến chuyển về chất và qua đó góp phần vào sự phát triển của xã hội hay không?
Rạng Đông là một doanh nghiệp sử dụng nguồn kinh phí sau thuế để đầu tư cho R&D. Ảnh: Rạng Đông.
Độ lùi một thập kỷ giúp chúng ta khách quan hơn khi nhìn vào hiệu quả thực thi Luật KH&CN năm 2013.
Không chỉ là điểm nhấn của ngành khoa học trong suốt một thập niên, Luật KH&CN 2013 còn tạo dựng được một nền tảng pháp lý quan trọng cho các hoạt động KH&CN, cơ sở chính sách về KH&CN với rất nhiều nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn, quy định… có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tổ chức và cá nhân trong lĩnh vực KH&CN. Luật KH&CN 2013 đã thoát khỏi cái bóng kế hoạch hóa trong quản lý KH&CN, đưa được ba nội dung được đánh giá là đột phá vào luật: đổi mới phương thức đầu tư cho KH&CN, đổi mới cơ chế tài chính, và xây dựng chính sách sử dụng, trọng dụng cán bộ KH&CN.
Tuy nhiên con đường từ ý tưởng, định hình thành chính sách đến thực thi trên thực tế là một quá trình dài mà không phải bao giờ kết quả đạt được cũng như kỳ vọng.
Những điểm nhấn hiệu quả
“Thay đổi hoàn toàn diện mạo KH&CN Việt Nam”, “tạo dựng một môi trường hoàn toàn khác biệt”, “trả khoa học về cho khoa học”, “đem lại cơ hội cho các nhà khoa học làm khoa học nhiều hơn và đóng góp nhiều hơn cho xã hội”…, đó là những lời nhận xét của cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam làm việc trong hầu hết các cơ sở KH&CN công lập ở Hà Nội và TP.HCM khi đánh giá về Luật KH&CN 2013. Có lẽ, những nhận xét này không hề quá lời, nếu chúng ta nhớ lại cả một thời kỳ trước khi Bộ KH&CN sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN vào năm 2013. Bộ Luật KH&CN ra đời năm 2000, mặc dù đã đặt những viên gạch đầu tiên cho nền tảng pháp lý về KH&CN nhưng cũng bộc lộ những điểm khiếm khuyết, những khoảng trống giữa chính sách và yêu cầu thực tế. Việc loại đi những nếp nghĩ lạc hậu như tư duy kế hoạch hóa trong quản lý hoạt động KH&CN và lấp những khoảng trống chính sách với các cơ chế tài chính mới có thể huy động nguồn lực của xã hội, doanh nghiệp cho KH&CN, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, cơ chế trọng dụng nhân lực… đã đem lại sức sống mới cho KH&CN Việt Nam.
Cho đến nay vẫn không ít người đánh giá thấp nỗ lực của các nhà khoa học Việt Nam khi cho rằng, họ chỉ sống trong tháp ngà, tiêu tiền nhà nước nhưng chỉ làm ra các nghiên cứu xếp ngăn kéo hoặc nếu đem lại sản phẩm công nghệ nào đó thì không ai dùng hay đã lạc hậu so với quốc tế. Tuy nhiên, ít ai biết rằng, các nhà khoa học Việt Nam vẫn phải làm việc trong một bối cảnh lạc hậu so với các đồng nghiệp quốc tế đến hàng chục năm về cung cách quản lý, đầu tư, nếu nhận được đầu tư thì lại bị trói buộc trong rất nhiều văn bản, thủ tục hành chính và bị giới hạn bởi sự xuống cấp, thiếu đồng bộ trong hệ thống cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu... Phương thức đầu tư mới cho KH&CN đi kèm với cơ chế tài chính của Luật KH&CN năm 2013, trong đó có cơ chế quỹ, đã đem lại cơ hội cho các nhà khoa học Việt Nam thực sự sống và làm việc trong môi trường khoa học tương đối liên tục và theo tiêu chuẩn quốc tế. Theo thống kê trắc lượng khoa học của một nhóm nghiên cứu ở ĐH Phenikaa, đến năm 2020, công bố quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam trên các tạp chí quốc tế ISI đã tăng gấp tám lần so với năm 2011. Thậm chí, số bài báo ISI của năm 2020 còn lớn hơn tổng số bài báo ISI của ba năm 2017, 2016 và 2015 và cũng lớn hơn tổng số bài ISI của Việt Nam trong giai đoạn năm năm trước đó, từ năm 2011 đến năm 2015.
Cho đến nay, khoa học Việt Nam vẫn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, chưa giải quyết được triệt để ở rất nhiều khía cạnh của quá trình quản lý, nghiên cứu và chuyển giao sản phẩm nghiên cứu: chưa thu hút được vốn xã hội và tư nhân đầu tư cho R&D, vẫn tồn tại sự rắc rối, nhiêu khê trong thủ tục giấy tờ ở các dự án nghiên cứu do nhà nước tài trợ, chưa khuyến khích được các chuyển giao công nghệ từ trường/viện cho doanh nghiệp, chưa có nhiều công ty spin-off/startup trên nền tảng công nghệ từ trường viện, chưa có nhiều nhà khoa học được hưởng chế độ đãi ngộ và khuyến khích làm việc từ nhà nước… |
Bối cảnh mới khiến các nhà khoa học Việt Nam cũng dần có tư duy thị trường hơn, nghĩa là hướng đến việc tối ưu những kết quả nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng thành sản phẩm và chuyển giao cho doanh nghiệp. nếu vào năm 2000, tổng số lượng hồ sơ đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ của người Việt Nam mới ở con số 34 thì sau 20 năm, mọi chuyện đã đổi khác. Theo số liệu trích xuất từ Cục Sở hữu trí tuệ, chỉ riêng số lượng đơn đăng ký sáng chế của nhóm trường đại học đã lên tới 150 đơn/năm và nhóm viện nghiên cứu là khoảng xấp xỉ 100 đơn/năm trong giai đoạn từ 2010-2020.
Mặc dù đến giờ thật khó định lượng ra có bao nhiêu phần trăm đóng góp của KH&CN trong một sản phẩm mới hoặc đóng góp mới làm thay đổi chất lượng ở một sản phẩm đã có nhưng có thể thấy, khoa học đã góp phần đem lại nhiều giải pháp, nhiều sản phẩm mới trong nhiều lĩnh vực: y tế, nông nghiệp, chế biến - chế tạo, xây dựng… Trong khuôn khổ buổi làm việc về hoạt động KH&CN ngành thủy lợi giữa Bộ KH&CN và Bộ NN&PTNT vào tháng 12/2020, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp đã nhận xét một cách công bằng về vai trò của KH&CN trong một khía cạnh của hoạt động nông nghiệp “Trong thời gian qua, có nhiều giải pháp KH&CN đã được đưa vào áp dụng trong công tác phòng chống thiên tai. Ví dụ như với vấn đề hạn hán ở ĐBSCL, từ trước đến nay chúng ta chưa bao giờ dự báo được hạn hán xác thực như vậy. Nay nhờ có dự báo nguy cơ rủi ro hạn hán có thể xảy ra ở thời điểm trước sáu tháng từ một đề tài trong khuôn khổ chương trình KC08 của Bộ KH&CN, chúng tôi đã có điều kiện áp dụng ngay, kịp thời thay đổi thời gian canh tác… Chỉ vào lúc xảy ra thiên tai hạn hán, chúng ta mới thấy hết được giá trị đóng góp của KH&CN”.
Luật KH&CN 2013 ra đời để bổ khuyết vào những điểm khuyết thiếu cho Luật KH&CN 2000, ví dụ theo lời TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN, trưởng ban soạn thảo dự thảo luật KH&CN 2013, một số vấn đề quan trọng mà Luật KHCN 2000 giải quyết được như khuyến khích thành lập các tổ chức KH&CN ngoài công lập, định hướng xây dựng các tổ chức KH&CN tầm quốc gia, mở rộng hợp tác quốc tế, đảm bảo sự đầu tư từ ngân sách nhà nước và thu hút nguồn đầu tư từ bên ngoài, “tuy nhiên đây vẫn là các quy định chung, chúng ta thực sự mới bắt đầu bước vào kinh tế thị trường nên thiếu kinh nghiệm, chưa có các chính sách cụ thể, vì thế không thực hiện được hoặc thực hiện không tốt”.
Luật KH&CN 2013 đã giải quyết được những điều cần thiết này nhưng theo thời gian, Luật KH&CN 2013 có bộc lộ những bất cập?
GS. Võ Tòng Xuân nghe kỹ sư Hồ Quang Cua giới thiệu về giống lúa ST25.
Những bất cập trong thực thi
Nếu ở ngoài nhìn vào, có thể thấy bất chấp việc có nhiều nội dung đổi mới được đưa vào Luật KH&CN năm 2013 thì khoa học Việt Nam vẫn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, chưa giải quyết được triệt để ở rất nhiều khía cạnh của quá trình quản lý, nghiên cứu và chuyển giao sản phẩm nghiên cứu... Như với các chính sách ưu đãi nhà khoa học, nhiều nhà quản lý các viện nghiên cứu có tiếng ở Việt Nam đã phải thốt lên là “các quy định của mình trong ưu đãi nhà khoa học đầu ngành không thể thực thi được, vì nó có quá nhiều vướng mắc”. Đến nay, cả một thập niên đã qua nhưng chưa có nhà khoa học đầu ngành nào hoặc nhà khoa học có thành tích xuất sắc nào được hưởng ưu đãi theo nghĩa được trao kinh phí theo cơ chế quỹ để thực hiện đề tài/dự án mình muốn trong một khoảng thời gian nhất định, được toàn quyền sử dụng nó theo cơ chế quỹ và được thực hiện theo hướng dẫn của Thông tư số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC. Một nhà quản lý thừa nhận “Ngay cả cơ chế khoán chi được quy định trong Thông tư số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC đối với nhiệm vụ KH&CN có sử dụng toàn bộ hoặc một phần ngân sách nhà nước do hai bộ trưởng Bộ KH&CN và Bộ Tài chính ký nhưng cũng không thể triển khai được do ở kho bạc, họ bảo ‘không, hóa đơn chứng từ đâu, tôi không chịu trách nhiệm quyết toán, phải nộp đầy đủ chứng từ đây thì tôi mới quyết toán được’”.
Do vậy, nhiều người đã đặt câu hỏi là điều gì khiến một bộ luật hướng dẫn hoạt động, ứng xử cho mọi tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực KH&CN lại không thể giúp xử lý được tất cả những điều đó, trong khi được thiết kế để giải quyết nó? Trong cuộc trao đổi với báo Khoa học và phát triển, TS. Nguyễn Quân cũng thừa nhận về thực trạng không hút được vốn xã hội: “Đúng là có rất nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình thực thi Luật KH&CN. Khi sửa luật, chúng tôi đặt kỳ vọng là đến 2015, đầu tư của xã hội phải lớn hơn của nhà nước, và đến 2020, đầu tư của xã hội phải lớn gấp ba lần của nhà nước. Thế nhưng đến năm 2020 vừa rồi, theo thông tin của Tổng cục Thống kê thì đầu tư của xã hội mới lớn hơn của nhà nước một chút thôi”. Ông lý giải, nguyên nhân là vì hầu hết doanh nghiệp vẫn không trích lập quỹ phát triển KH&CN tại doanh nghiệp, chưa kể các địa phương, bộ, ngành vẫn chưa lập quỹ phát triển KH&CN của địa phương, bộ, ngành để các doanh nghiệp có thể góp vốn vào. “Từ trước tới nay trên cả nước cũng chỉ có chừng chục bộ có quỹ và trong 63 tỉnh thành, trước đây có khoảng 20 tỉnh lập nhưng tới giờ chỉ còn 5, 7 tỉnh thôi. Hầu hết các quỹ KH&CN tại địa phương đều bị giải thể rồi”, ông nói.
Qua khảo sát của các địa phương và một số điều tra của một số bộ, ngành, hầu như doanh nghiệp Việt Nam đều là nhỏ và siêu nhỏ nên quy định không được trích quá 10% lợi nhuận trước thuế chỉ đem lại các khoản chi phí không đủ đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cấp công nghệ; việc vận hành các quỹ gặp rất nhiều khó khăn do văn bản hướng dẫn khó thực thi… TS. Nguyễn Quân thừa nhận “Chúng tôi cũng tính, các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế doanh thu rất lớn, nếu trích 3% cũng có mấy nghìn tỉ cho KH&CN rồi. Mặt khác, chúng tôi cho là việc giải ngân kinh phí nguồn ngoài ngân sách nhà nước đơn giản hơn, kịp thời hơn và đem lai hiệu quả nghiên cứu cao hơn, giải quyết ngay các vấn đề của doanh nghiệp và nền kinh tế”.
Tuy nhiên trên thực tế thì mọi chuyện lại diễn ra hoàn toàn khác với mong muốn của ban soạn thảo. “Mặc dù trong Luật KH&CN đã quy định và buộc phải thực hiện song nếu không áp dụng thì không ai làm sao cả. Ví dụ, mặc dù đã ghi rất rõ là doanh nghiệp cần trích 3% lợi nhuận thu được để chi tiêu cho phát triển công nghệ, nếu chưa tiêu được hết số tiền đó hoặc chưa cần đến số tiền đó thì có thể nộp vào quỹ của nhà nước, có thể là quỹ KH&CN địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động nhưng các doanh nghiệp nhà nước của mình có làm đâu, có lãnh đạo doanh nghiệp nào bị xử lý kỷ luật vì cái tội không trích 3% đâu? Không trích có làm sao đâu? Đây cũng là một phần lý do mà các doanh nghiệp cũng không cảm thấy cần phải lập quỹ”, TS. Nguyễn Quân nói.
Hiện trạng này cho thấy một thất bại chính sách trong việc hút vốn đầu tư của xã hội và tư nhân cho R&D. Nhưng có lẽ, việc chính sách không được thực thi đầy đủ và có hiệu lực như kỳ vọng còn do những nguyên nhân khách quan khác. “Việc triển khai áp dụng những nội dung này cũng rất hạn chế bởi Quốc hội mình vẫn có tư duy là luật chuyên ngành có giá trị cao nhất, ví dụ muốn cấp tiền thì theo Luật Ngân sách, muốn hưởng ưu đãi Thuế thì theo Luật thuế, muốn sử dụng, tuyển dụng cán bộ viên chức như thế nào thì theo luật viên chức, KH&CN muốn làm gì cũng phải trong khuôn khổ của các luật ấy, luật ra sau không phủ quyết được luật ra trước”, TS. Nguyễn Quân lý giải.
Những tình huống khó khăn, bế tắc trong thực thi các nội dung đổi mới của Luật KH&CN cho thấy, để các nội dung này phát huy giá trị vốn có của nó, hướng dẫn được các nhà khoa học, các doanh nghiệp thực hiện theo thì còn cần nhiều điều kiện khác đi kèm. “Tôi nghĩ là trong quá trình soạn thảo, bạn soạn thảo cần đi thuyết phục các bộ, ngành ủng hộ để đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiên điều này cũng không thể giúp đảm bảo là đến lúc thực thi luật không xảy ra vướng mắc mới. Ví dụ, với cơ chế quỹ thì lúc thông qua Luật KH&CN, tôi đã đề nghị là bao giờ sửa Luật Ngân sách thì chú ý một điều là riêng đối với nhiệm vụ KH&CN thì theo Luật KH&CN. Dù Luật KH&CN cũng được Quốc hội bấm nút thông qua nhưng đến lúc thực thi thì cuối cùng vẫn phải theo hướng dẫn của Luật Ngân sách, nghĩa là nhiệm vụ chưa được phê duyệt thì chưa được cấp kinh phí trước”, TS. Nguyễn Quân cho biết.
Với những bất cập như vậy, việc tiếp tục sửa Luật KH&CN 2013 là một nhu cầu cấp thiết.
Nguồn: Báo Khoa học và Phát triển
Link gốc: https://khoahocphattrien.vn/chinh-sach/luat-khcn-nam-2013-con-nhieu-vuong-mac-trong-thuc-thi/2023033109565371p1c785.htm