wowslider.com

Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tạo thành công đàn ong chúa ngoại.

Ông Lê Quý Quyết - Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Phương Bắc đang kiểm tra đàn ong. Ảnh Ngọc Quỳnh Tỉnh Hải Dương sau khi tái lập tỉnh đến nay phong trào nuôi ong đã giảm nhiều so với trước. Ngay ở huyện Thanh Hà có hàng nghìn ha vải là nguồn cho mật phong phú, dồi dào và chất lượng (chưa kể các nguồn mật từ các cây khác như: lúa, cam, quất, ổi, ...) cũng mới chỉ có vài chục người nuôi ong với tổng số hơn 1.000 đàn. Giống ong nuôi chủ yếu là ong nội, năng suất thấp, hay bị dịch bệnh phá hại, nhất là các bệnh thối ấu trùng châu Âu (bệnh thối ấu trùng tuổi nhỏ), bệnh ấu trùng túi (bệnh nhọn đầu), bệnh ỉa chảy lây lan. Trong khi đó hiểu biết về kỹ thuật nuôi ong Ý, cũng như các biện pháp phòng trừ dịch bệnh cho những người nuôi ong còn rất nhiều hạn chế.
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tạo thành công đàn ong chúa ngoại.
Các giống ong hiện nay các hộ nông dân đang nuôi là giống ong nội, ong Ý, được mua tại Công ty Ong Trung ương. Người dân đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình nuôi ong làm giảm hiệu quả kinh tế của nghề nuôi ong như: bệnh thối ấu trùng, bệnh đường ruột, ve (chi) ký sinh ở ong chúa. Hầu như khi bị sâu bệnh hại đàn ong người dân không có biện pháp nào hữu hiệu để phòng trừ, áp dụng biện pháp theo cảm tính, kinh nghiệm như sử dụng một số loại thuốc kháng sinh: Neotisol, Streptomycine, Fluonoquinolone. Ngoài ra việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong nuôi ong hiện nay ở  thị xã Chí Linh và huyện Thanh Hà còn rất kém. 100 % các hộ nông dân đều không được tập huấn hay tham dự các lớp học về  quy trình kỹ thuật nuôi ong hàng năm. Hiện nay ở huyện Thanh Hà khoảng 3.700 đàn (3.000 đàn ong Ý, 700 đàn ong nội), ở thị xã Chí Linh là 2.000 đàn (1.500 đàn ong Ý, 500 đàn ong nội). Năng suất nuôi ong lấy mật ở thị xã Chí Linh và huyện Thanh Hà đạt từ 35-40 kg/đàn ong/năm đối với ong Ý (3,5-4,0 kg/cầu ong/năm) và từ 30-35 kg/đàn ong/năm (3,0-3,5 kg/cầu ong/năm) đối với giống ong nội. 80 % các hộ nuôi ong đã áp dụng biện pháp mới trong nuôi ong so với trước đây: giống ong, cầu ong, thu mật; biện pháp chạy đàn, chuyển đàn tận dụng nguồn phấn hoa rừng về mùa đông. Các hộ nông dân ở hai địa phương trên đều áp dụng phương pháp nuôi  ong trong hộp xốp (1 đàn ong trong 1 hộp xốp), mỗi hộp xốp khoảng từ 8-10 cầu ong. Các cây nguồn mật nuôi ong được tận dụng là các cây ăn quả, rau  màu đang trồng ở các địa phương. Về mùa đông khi các cây nguồn mật khan hiếm, một số hộ nông dân nuôi nhiều ong phải di chuyển đàn ong lên tỉnh Sơn La hoặc có hộ di chuyển vào tận Tây Nguyên để  tận  dụng các cây nguồn mật như: cây công nghiệp: cà phê, cao su, điều; cây hoa rừng: càng cua, bạc hà dại, ngải cứu rừng . . . Sản phẩm chính của nghề nuôi ong là mật ong, ngoài ra còn một số sản phẩm phụ như phấn hoa, sữa ong chúa, sáp ong.
Trước thực tiễn đó, công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Phương Bắc đã xác định được có 3 bệnh (đều có tính chất lây lan) thường xảy ra và gây thiệt hại cho các đàn ong ngoại ở Thanh Hà: thối ấu trùng châu âu (TATCA), thối ấu trùng túi (TATT), thối ấu trùng vôi (TATV). Trong năm 2009 đã có 3 bệnh TAT đã xuất hiện ở  huyện Thanh Hà. Trong tổng số 25 trại được điều tra, có 23 trại ong đã xác nhận có bệnh TATCA (chiếm tỷ lệ 92%) và 12 trại ong đã bị mắc bệnh TATT (48%) và chỉ có một trại ong xuất hiện bệnh TATV (4%). Bệnh TATT cũng gây thiệt hại lớn, các trại ong thường bị thiệt hại từ 60 65% tổng số đàn. Dẫn đến đàn ong không đủ, nên lớp ong thợ phủ trên các bánh tổ thưa, năng suất mật giảm trầm trọng. Nhiều đàn ong mắc bệnh, nếu không được can thiệt kịp thời đều bỏ tổ, bốc bay.
Ngoài ra còn phải kể đến những khó khăn thường gặp phải của nghề nuôi ong lấy mật trong đó phải kể đến hầu hết các hộ nuôi ong thiếu hiểu biết về các biện pháp phòng trừ dịch bệnh; Thị trường tiêu thụ; nguồn mật cho ong về mùa thu, đông thiếu trầm trọng. Hiện nay các hộ nông dân phải vận chuyển đàn ong của mình đi nuôi ở Mộc Châu (Sơn La), Đắc Lắc, ... để tận dụng nguồn phấn hoa rừng nên rất tốn kém  về nhân công và kinh phí để duy trì đàn ong. Được sự hỗ trợ kỹ thuật của Trường Đại học Nông lâm TP. Hồ Chí Minh, Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Phương Bắc đã tiếp thu và sản xuất được:  2.060 con ong chúa ngoại giao cho 5 hộ nông dân để tạo ra 2.060 đàn ong mật ngoại, vượt so với kế hoạch 560 đàn ong mật (kế hoạch 1.500 con ong chúa ngoại để tạo ra 1.500 đàn ong mật).
Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ong Ý có áp dụng biện pháp phòng trừ dịch bệnh mới, áp dụng biện pháp phòng trừ dịch bệnh thông thường và nuôi ong nội tại địa phương. Đối với ong Ý từ 2.047,5 – 2.212,5 triệu đồng/1.500 đàn/năm (từ 1,36 – 1,47 triệu đồng/đàn/năm), ong nội: 334,0 triệu đồng/500 đàn/năm (668.000 đồng/đàn/năm). Lãi mô hình nuôi ong Ý có áp dụng biện pháp phòng trừ dịch bệnh mới đạt 215.000 đồng/đàn/năm, mô hình nuôi ong Ý theo phương pháp thông thường lỗ 405.000 đồng/đàn/năm, mô hình nuôi ong nội lỗ 168.000 đồng/đàn/năm do năng suất, giá bán mật ong, các sản phẩm phụ của nghề nuôi ong (phấn hoa, sáp, sữa ong chúa) đều thấp hơn. Nuôi ong Ý có áp dụng biện pháp phòng trừ dịch bệnh mới lãi đạt 690.000 đồng/đàn/năm, cao hơn so với đối chứng nuôi ong áp dụng biện pháp phòng trừ dịch bệnh thông thường 290.000 đồng/đàn/năm và nuôi ong nội 358.000 đồng/đàn/năm. Tuy nhiên nuôi ong nội có nhược điểm: quy mô tối đa chỉ được 100 đàn/hộ gia đình, giá thành nuôi ong lấy mật cao, chất lượng mật không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, chủ yếu tiêu thụ nôi địa nên giá bán thấp; các sản  phẩm phụ như phấn hoa, sáp ong và sữa ong chúa không có. Nuôi ong Ý áp dụng biện pháp thông thường có chất lượng mật không đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu do người dân dùng thuốc kháng sinh bừa bãi. Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tại các mô hình nuôi ong ngoại cho thấy, quy trình tạo chúa đã được bổ sung dễ áp dụng và đạt hiệu quả cao, trong đó tỷ lệ tiếp thu ấu trùng là 93,42%, tỷ lệ chúa tơ đạt yêu cầu là 98,00 ± 0,13%, tỷ lệ chúa tơ giao phối và đẻ trứng đạt 76,18 ± 2,94%. Dùng  sữa đang lên men (SĐLM) để điều trị bệnh không gây ra tác dụng phụ bất lợi cho đàn ong, khi điều trị bệnh TATCA, tỷ lệ khỏi bệnh đạt từ 85,71 -100%, dùng SĐLM để điều trị bệnh TATT, tỷ lệ khỏi bệnh đạt từ 57,14 – 85,71%.
Thông qua kết quả xây dựng mô hình nuôi ong ngoại Apis melifera và áp dụng các biện pháp phòng trừ dịch bệnh cho ong đã góp phần tăng thu nhập cho người nông dân ở xã Thanh Bính huyện Thanh Hà, là một xã thuần nông, thu nhập chính là cây vải với hiệu quả kinh tế thấp, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho người lao động ở địa phương.
Phạm Ninh Hải

Tạp chí KH&CN
Xem tạp chí:
Tin xem nhiều
Cổng thông tin điện tử Sở KHCN
Thương hiêu
Sàn Giao dịch công nghệ
Chuyển đổi số
Chuyên trang Nông nghiệp
Trang tiết kiệm năng lượng
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập101
  • Hôm nay59,780
  • Tháng hiện tại736,552
  • Tổng lượt truy cập27,778,953
Thống kê truy cập
Thống kê truy cập
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây