Quy trình nuôi cá trê lai vàng
Cá trê lai vàng là kết quả của lai giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo giữa cá trê phi và cá trê vàng.
Cá trê vàng lai có ngoại hình tương tự như cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu bẹp, thân hình trụ, dẹp ở phía đuôi. Thân có màu vàng xám hoặc nâu vàng xám, phần bụng màu vàng nhạt, trên thân lốm đốm nhiều bông cẩm thạch và nhiều chấm trắng nhỏ theo chiều đứng (thẳng góc với thân cá). U lồi xương chẩm có hình gần tương tự như chữ M với các cạnh tròn trong khi ở cá trê vàng là hình chữ V còn ở cá trê phi là hình chữ M rất gọn, rõ nét.
I - Đặc điểm sinh học
Cá trê lai vàng là kết quả của lai giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo giữa cá trê phi và cá trê vàng.
Cá trê vàng lai có ngoại hình tương tự như cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu bẹp, thân hình trụ, dẹp ở phía đuôi. Thân có màu vàng xám hoặc nâu vàng xám, phần bụng màu vàng nhạt, trên thân lốm đốm nhiều bông cẩm thạch và nhiều chấm trắng nhỏ theo chiều đứng (thẳng góc với thân cá). U lồi xương chẩm có hình gần tương tự như chữ M với các cạnh tròn trong khi ở cá trê vàng là hình chữ V còn ở cá trê phi là hình chữ M rất gọn, rõ nét.
Đầu cá nhỏ, tỷ lệ đầu/chiều dài thân gần tương tự như cá trê vàng khi cá còn nhỏ, kích thước từ 100 – 300g/con. Khi cá đã lớn, trọng lượng đạt trên 500g/con thì có thể rõ ràng phân biệt với trê vàng do thân cád mập, ngắn.
Cá trê vàng lai rất mau lớn, trong điều kiện nuôi với mật độ thích hợp thức ăn đầy đủ, sau 3 – 4 tháng nuôi cá sẽ đạt trọng lượng trung bình từ 150 – 200 g/con.
Cá sống trong môi trường nước hơi phèn và trong điều kiện nước hơi lợ (độ mặn < 5‰). Cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH trong khoảng từ 5,5 – 8,0.
Do cá có cơ quan hô hấp phụ nên cá trê vàng lai sống được trong ao, đìa nước tù, chịu đựng được cả những khi hàm lượng oxy trong nước xuống thấp (1 – 2 mg/l).
Cá bột mới nở từ trứng do có túi noãn hoàng nên không ăn thức ăn bên ngoài. Sau khi nở được 48 giờ cá mới tiêu thụ hết noãn hoàng.
Cá bột từ ngày thứ ba trở đi bắt đầu ăn được bo bo hay còn gọi là trứng nước (moina), nếu được thả nuôi trong ao chúng cũng ăn được các loại giáp xác nhỏ sống trong nước. Sau vài ngày chúng đã ăn được trùng chỉ. Thông thường, nếu ương cá bột trong bể xi măng hoặc bể bạt thì trùng chỉ sẽ là thức ăn chủ yếu trong quá trình ương cho đến khi cá đạt cỡ 4 – 6 cm. Từ cỡ này trở đi cá có thể ăn được ruốc, tép, côn trùng, các phụ phế phẩm như đầu vỏ tôm, ruột sò, điệp và các thức ăn tinh khác như cám, bắp, bột cá v.v…
Cá trê vàng lai nuôi thành cá thịt trong ao cũng ít khi bị bệnh. Tuy nhiên, cũng như cá trê vàng, chúng thường chui rúc, quậy thành hang, dễ làm hỏng bờ ao. Chúng cũng hay phóng, nhảy khi mực nước trong ao nuôi cao gần xấp xỉ mặt bờ nhất là trong những ngày nước lớn, trời có mưa.
Cá trê vàng lai hoạt động, bơi lội, ăn mạnh vào buổi chiều tối hoặc ban đêm, lúc trời mờ sáng, vì vậy việc kéo lưới thu hoạch cá (cá giống và thịt) nếu thực hiện vào những thời gian kể trên sẽ đạt hiệu quả cao.
Mùa vụ thả nuôi thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 âm lịch hàng năm.
Ii – kỹ thuật sinh sản nhân tạo
Mùa vụ sinh sản nhân tạo cá trê vàng lai bắt đầu từ tháng 2 âm lịch, khi cá trê vàng bắt đầu mang trứng và kéo dài đến hết tháng 9 âm lịch.
1. Tuyển chọn và nuôi vỗ cá bố mẹ
Cá trê vàng cái có thể chọn mua từ cá được đánh bắt trong tự nhiên hoặc cá được nuôi trong ao. Cá phải đủ 8 – 12 tháng tuổi, có trọng lượng trung bình từ 150 – 200 g. Chọn cá khoẻ mạnh, không bị dị tật, da trơn nhẵn, đem về thả nuôi trong các ao có diện tích nhỏ, từ 100 – 200 m2, mật độ thả nuôi 1 – 1,5 kg/m2. Cho cá ăn cám hỗn hợp (cám heo) nấu chín có bổ sung premix vitamin 1 – 2% và cho ăn thêm các phụ phế phẩm: đầu tôm, ruột sò, điệp, ruột gà, vịt v.v… theo tỷ lệ 1/1. Sau thời gian nuôi vỗ khoảng 3 – 4 tháng (bắt đầu từ tháng 11 âm lịch) cá sẽ thành thục và sẵn sàng được dùng để cho đẻ, lúc này bụng cá hơi lớn, lỗ sinh dục có màu phớt hồng.
Cá trê phi đực là cá được nuôi từ cá giống sinh sản nhân tạo tại Việt Nam, chọn cá đã được 7 tháng tuổi, trọng lượng trung bình từ 0,5 – 0,7 kg/con nuôi vỗ trong ao riêng, mật độ 1,5 – 2 kg/m2, cho ăn thức ăn tươi như đầu Tôm, da ruột mực, ruột gà, vịt, hoặc cho ăn cám nấu trộn với cá phân (đã xay).
2. Các kích dục tố dùng trong sinh sản nhân tạo cá trê vàng lai và liều lượng dùng
Hai loại kích dục tố thường được dùng nhiều trong sinh sản nhân tạo cá trê vàng lai ở Việt Nam là não (cá chép, mè, trê) dạng tươi ngâm trong acetone hoặc não khô (Hungari, Czechoslovakia) và HCG (Human chorinoic gonadotropin).
Não cá: Lượng dùng 10 – 12 mg/kg cá cái, liều tiêm cho cá đực bằng 1/2 - 1/3 liều dùng cho cá cái.
HCG: dùng 5000 – 8000 UI/kg cá cái, liều dùng cho cá đực từ 2.000 – 3.000 UI/kg cá đực.
Các kích dục tố: Não được nghiền mịn hoặc HCG được hoà tan trong nước muối sinh lý 9‰ hoặc nước cất.
Liều lượng tiêm cho cá thường thay đổi tuỳ theo mùa vụ, đầu vụ hoặc cuối vụ liều dùng thường hơi cao hơn so với giữa vụ cá đẻ.
Cũng có thể dùng phối hợp cả hai loại não và HCG. Để việc sinh sản đạt hiệu quả cao, cá rụng trứng tốt, các kích dục tố thường được tiêm làm hai liều:
Liều sơ bộ: Tiêm 1/3 tổng liều kích dục tố dùng.
Liều quyết định: Tiêm 2/3 tổng liều, thời gian tiêm liều quyết định từ 5 – 6 giờ sau khi tiêm liều sơ bộ. Cá cái sẽ rụng trứng khoảng 8 – 9 giờ sau khi tiêm liều quyết định.
Hiện nay trên thị trường đã xuất hiện một loại kích dục tố tổng hợp tên gọi là LHRH – a hoặc LRH của Trung Quốc hoặc Thái Lan dùng chung với một loại hoá chất có tên Domperidone (DOM) hoặc Motilium dạng bột hoặc dạng viên. Các thuốc này được sử dụng rất phổ biến trong sinh sản nhân tạo cá Trắm, Mè, Trôi, He v.v… Riêng đối với cá trê vàng lai thuốc chưa được sử dụng rộng rãi, vì vậy kết quả về liều lượng, hiệu quả sử dụng LRH chưa được công bố.
Theo một số tài liệu của Thái Lan và Trung Quốc thì liều lượng sử dụng của hai loại kích dục tố này cho cá trê vàng và trê phi là:
30 – 50 mg (microgam) LRH và 3 – 5 mg Domperidone cho 1 kg cá cái trê vàng.
5 mg LRH và 5 mg Domperidone cho 1 kg cá đực trê phi.
Thời gian hiệu ứng của thuốc: 10 giờ sau khi tiêm.
3. Cách tiêm cho cá
Thuốc được tiêm vào cơ lưng hoặc vào xoang bụng (qua phần thịt ở gần gốc vây ngực). Sau khi tiêm, cá sẽ được thả vào các bể xi măng có mực nước thấp từ 15 – 20 cm để dễ thao tác, bắt cá ra cho đẻ và để cá không phóng nhảy ra ngoài có thể bị xây sát.
4. Thụ tinh nhân tạo
Cá cái được lau sạch phần bụng bằng khăn khô, mềm và vuốt trứng vào trong các khay hoặc chậu (bằng nhựa hoặc có tráng men).
Mổ cá đực để lấy hai buồng sẹ, cho vào một cái chén nhỏ bằng thuỷ tinh hoặc bằng sứ, dùng kéo mổ có mũi nhọn nháp sẹ để tinh dịch ca tiết ra ngoài, cho thêm một ít nước muối sinh lý vào trong chén.
Đổ dịch sẹ vào trứng, dùng lông gà khuấy đều trong 2 – 3 phút, sau đó rót thêm nước sạch (nước đã nấu chín, để nguội hoặc nước cất) vào để dễ khuấy. Chắt bỏ nước và rửa khoảng 2 lần cho trứng sạch các chất nhầy và các mảnh sẹ bám vào.
Tỷ lệ trê đực phi và cá cái trê vàng dùng trong sinh sản nhân tạo là 1,5 – 2 cá đực/4 – 5 kg cá cái.
5. ấp trứng
Trứng đã thụ tinh được dùng lông gà rải thật đều và nhanh tay lên các vỉ lưới (đóng bằng khung gỗ, co căng lưới vèo cho thật phẳng) đã được nhấn chìm trong các bể ấp diện tích từ 1 – 2 m2, mực nước trong bể sâu khoảng 20 – 30 cm.
Trứng nở sau 22 – 26 giờ ấp ở nhiệt độ bình thường (28 – 300C). Cá bột mới nở sẽ chui qua lỗ lưới rớt xuống đáy bể.
Bể ấp phải được sục khí và cho nước chảy vào, ra liên tục.
Sau 3 – 4 giờ kể từ khi cá bắt đầu nở phải lấy vỉ lưới ra khỏi bể để tránh trường hởptứng ung trên vỉ bị phân huỷ làm thối nước sẽ dẫn đến trường hợp cá bị ngộp và chết.
III – Kỹ thuật ương cá bột lên cá giống
1. Ương trong bể xi măng
a. Chuẩn bị bể nuôi
Nếu là bể xi măng mới xây thì phải ngâm nước khoảng 10 – 12 ngày, trong suốt thời gian ngâm nên thường xuyên thay nước trong bể. Muốn bể sử dụng được nhanh nên dùng loại chuối trái gần hườm chín chà khắp thành và đáy bể rồi lấy nước vào ngâm tiếp. Sau 3 – 4 ngày thì bể đã có thể sử dụng được. Tốt nhất là dùng loại giấy đo pH để đo nước trong bể trước khi muốn thả cá, nếu thấy pH khoảng 7 – 8 là được.
Nếu là bể cũ đã sử dụng rồi thì phải chà rửa sạch, dùng nước vôi trong hoặc dùng chlorine pha với nồng độ 10 – 20 ppm (10 – 20 mg/l) tạt đều lên thành bể rồi phơi bể một nắng. Trước khi lấy nước vào bể bơm nước sạch xả lại, sau đó mới lấy nước vào bể.
Dùng nước máy: lấy vào bể trước 1 ngày.
Dùng nước giếng: bơm nước vô bể trước 2 ngày rồi mới thả cá được.
Mực nước lấy vào bể nên duy trì trong khoảng 30 – 40 cm là tốt nhất.
b. Mật độ ương
Mật độ ương nuôi thích hợp khoảng từ 2.000 – 2.5000 con cá bột/m2. Trước khi thả cá cần phải ngâm bọc đựng cá bột vào bể nước định thả cá khoảng 5 phút đến khi nhiệt độ nước trong bọc cá và nước trong bể gần bằng nhau thì mới thả cá ra để tránh trường hợp cá bị sốc do chênh lệch nhiệt độ. Nên thả cá tại 1 chỗ trong bể, những con cá khỏe bơi men theo thành bể và tụ lạỉơ góc bể, những con cá yếu hoặc mệt do quá trình vận chuyển sẽ nằm tại điểm thả cá, sẽ được hút ra bằng ống xi phông.
c. Thức ăn và cách cho ăn
Cá bột mới thả nuôi được cho ăn bo bo (moina) trong 2 – 3 ngày để cá dễ bắt mồi và đều cỡ. Lượng cho ăn khoảng 1 – 1,15 bo bo/20.000 cá bột/ngày. Lượng trùng cho ăn sẽ điều chỉnh tăng dần lên trong quá trình nuôi. Thường tốn khoảng 100 – 110 lon/10.000 cá giống đạt lồng 6 (cỡ 4 – 5 cm).
Trùng mua về đem rửa kỹ và khuấy đều lên trong một chậu nước, sau đó để trùng tụ lại thành từng đám, gỡ bỏ rác rưởi và các chất bẩn bám vào trùng.
Rải đều trùng quanh bể cho cá ăn. Thường xuyên theo dõi cho ăn vừa đủ, không để trùng dư trong bể để kích thích cá ăn được nhiều, mau lớn, đồng thời không làm ảnh hưởng đến chất lượng nước trong bể nuôi.
d. Chăm sóc
Thường xuyên dùng ống xi phông hút cặn và phân cá lắng dưới đáy bể. Cách ngày thay khoảng 20 – 30% lượng nước trong bể và cho thêm nước mới vào để giữ cho môi trường nước trong bể luôn được sạch, kích thích cá hoạt động bơi lội mạnh, ăn nhiều.
Theo dõi hoạt động của cá nhằm sớm phát hiện bệnh cá và tìm cách chữa trị. Nên che 4 góc bể hoặc phủ lá dừa trên mặt nước để cá có chỗ trú ẩn. Sau 16 – 18 ngày nuôi, nếu không bị bệnh, điều kiện môi trường thuận lợi thức ăn đầy đủ cá đạt cỡ 4 – 6 cm (lồng 7) tỷ lệ sống của cá thường đạt 60 – 85%.
2. Ương trong bể bạt
a. Chuẩn bị bể nuôi
Bể bạt không đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu nhiều như xây bể xi măng. Chỉ cần đóng khung gỗ với các cọc chắc chắn trên nền đất đã được nện phẳng, sau đó đỏ cát, san đều cho bằng trước khi trải bạt để không làm các tấm bạt bị cấn, dễ rách, hư hỏng. Nên chọn loại bạt dày, không bị lỗ mọt, đặt làm hoặc mua sẵn cho vừa với kích cỡ của khung (thường các cỡ bạt là 4 ì 6 m, 5 ì 5 m, 3 ì 4 m v.v…). Trải bạt vào khung, dùng khuy hoặc nẹp bằng kẽm nẹp trên thành cho chắc rồi mới bơm nước vào.
Nước lấy vào bể bạt tương tự như bể xi măng. Sau mỗi đợt thu cá giống bán, gỡ bạt ra giặt sạch bằng bàn chải rồi phơi nắng hoặc tạt rửa bằng nước chlorine 10 – 20 ppm trước khi phơi nắng. Khi muốn thả đợt cá mới phải kiểm tra bạt, vá lại những chỗ bị rách, thủng (bằng keo dán nhựa, dán bạt) rồi mới lấy nước vào.
b. Mật độ thả: tương tự như trong bể xi măng, từ 2.000 – 2.500 con/m2.
c. Thức ăn và cách cho ăn: tương tự như nuôi trong bể xi măng.
d. Chăm sóc: giống như ở bể xi măng.
3. Ương trong ao đất
a. Chuẩn bị ao
các ao có diện tích từ 500 – 1.000 m2 rất tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch. Mực nước thích hợp trong ao từ 1 – 1,2 m. Đáy ao phải làm dốc về phía cống thoát nước. Để dễ thu hoạch cá giống khi tháo cạn ao nên đào một cái rãnh rộng 1 – 1,5 m; sâu 0,2 – 0,3 m ngang qua ao; dốc từ hai phía cạnh ao xuống một hố tròn có đường kính 2 – 3 m, sâu khoảng 0,5 m trước họng thoát nước.
Nếu ao mới đào:
Bón vôi với lượng 100 – 150 kg/1000 m2, rải đều khắp đáy ao, lấy nước vào ao khoảng 0,5 m. Gây màu nước xanh bằng cách bón phân chuồng đã ủ hoai 25 – 35 kg/1000 m2 ao hoặc dùng phân urê với lượng 0,5 – 1 kg/1000 m2. ấy thêm nước vào aođủ mực nước cần thiết 1 – 1,2 m. Sau 3 – 4 ngày có thể thả bo bo giống vào (khoảng 10 – 15 lon/1.000 m2 ao). Hai ngày sau khi thả bo bo sẽ phát triển nhiều hơn, và có thể thả cá bột vào trong ao nuôi.
Nếu là ao cũ:
Nạo vét bùn đáy ao, đắp bờ, xảm lại các lỗ mội, đào rãnh và hố thu cá giống, phơi đáy ao. Bón vôi với lượng 30 – 70 kg/1.000 m2. Lấy nước vào ao 0,5 m. Sau đó bón phân chuồng đã ủ hoai 15 – 25 kg/1.000 m2. Lấy thêm nước vào ao cho đến khi đạt mức nước sâu khoảng 1 – 1,2 m. Đóng bọng lại không cho nước ra vào nữa. Sau 3 –4 ngày thả bo bo vào ao, 2 ngày sau mới thả cá bột xuống ao.
b. Mật độ thả
250 – 400 con/m2 mặt nước ao. Khi thả cá bột nên nhớ ngâm bọc cá vào nước ao khoảng 5 phút để nhiệt độ nước trong bọc gần bằng với nhiệt độ nước ao thì mới thả cá ra.
c. Thức ăn và cách cho ăn
Sau khi thả cá được 3 – 4 ngày mới cho ăn thêm trùng chỉ khoảng 10 – 12 lon/100.000 bột/ngày. Lượng trùng sẽ được điều chỉnh tăng dần lên trong quá trình nuôi. Trong những mùa khan hiếm trùng (nắng nhiều, nước sông bị lợ) sau khi cá đã đánh móng được (khoảng 7 – 8 ngày kể từ ngày thả) có thể giảm bớt lượng trùng, cho cá ăn thêm huyết heo (bò) luộc chín, bóp nhuyễn, cá hấp (hay luộc chín) bỏ xương, bóp nhuyễn, cám nấu chín v.v… cho ở 4 góc ao để tiện việc kiểm soát xem cá có ăn hết thức ăn không và điều chỉnh lượng thức ăn vừa đủ cho cá ăn.
Cá ương trong ao đất rất mau lớn nếu so với trong bể xi măng. Da cá mỏng, dễ bị xây sát nên khi kéo lưới hoặc lọc cá để bán nên chú ý cẩn thận và tắm cá trong dung dịch muối ăn 0,5 – 1% trong một phút để ngừa bệnh cho cá. Nên rộng cá trong bể xi măng và luyện cá trước khi bán, nhất là trong những trường hợp vận chuyển đường xa, thời gian lâu.
Cá giống trê vàng lai ương trong ao đất rất dễ bị sình bụng, nên định kỳ ngừa cho cá bằng cách trộn Furazone (hoặc Furazolidon) với lượng 8 – 10 g/kg thức ăn.
d. Chăm sóc cá ương
Ương cá trong ao đấtkhông đòi hỏi tốn nhiều công chăm sóc như ương trong bể xi măng, bể bạt. Tuy nhiên, vẫn phải thường xuyên theo dõi cá hoạt động bơi lội, bắt mồi của cá để kịp thời phát hiện bệnh cá. Ương nuôi cá trong ao đất cho phép sử dụng thêm các nguồn thức ăn khác ngoài trùng chỉ, hạ chi phí con giống do chi phí đầu tư thức ăn không nhiều như ương trong bể. Cá nuôi trong ao rất mau lớn, chỉ sau 13 – 14 ngày cá đã đạt tới cỡ 4 – 6 cm. Tuy nhiên, tỷ lệ sống của cá thấp hơn so với ương trong bể (25 – 40%) do địch hại trong ao (ếch, nòng nọc, rắn, cá dữ v.v…) nhiều. Nuôi trong ao khó thu hoạch được triệt để như nuôi ở trong bể, khi cá bị bệnh rất khó chữa trị và lượng thuốc dùng rất tốn kém. Vì vậy, việc kiểm soát chất lượng nước trong nước ao từ cá bột lên cá giống kết hợp với việc định kỳ cho cá ăn thức ăn có ngừa thuốc là rất quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến sự thành công trong ương nuôi.
IV – kỹ thuật nuôi cá thương phẩm trê vàng lai
1. Chuẩn bị ao nuôi
Ao nuôi cá trê vàng lai có diện tích từ 1.000 – 3.000 m2 sẽ thuận tiện cho việc cho ăn, chăm sóc và thu hoạch.
Nếu là ao cũ: Vét bùn đáy ao, lấp hang hốc, phaats quang bụi rậm, phơi đáy ao 2 – 3 ngày, bón vôi từ 30 – 50 kg/1.000m2 để diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với liều lượng 100 – 150 kg phân/1.000 m2. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao. Sau 5 – 7 ngày có thể thả cá vào ao nuôi được. Mực nước ban đầu lấy vào khoảng 1 m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2 – 1,5 m.
Nếu là ao mới đào: Bón vôi với lượng từ 70 – 100 kg/1.000 m2 để giữ cho độ pH của nước ao từ 6 – 7,5 là tốt nhất.
2. Chọn cá giống
Chọn cỡ cá đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây sát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh. Các kích cỡ cá giống thả ao thường được phân ra như sau:
Cỡ cá Số con/kg Cỡ lồng lọc
3 – 4 1.800 – 2.200 5
4 – 6 1.300 – 1.700 6
5 - 7 1.100 - 900 7
Nếu ao không bị rò rỉ, có thể rút cạn nước và diệt tạp triệt để thì nên thả nuôi cá cỡ nhỏ 3 – 4 cm hoặc 4 – 5 cm để giảm được chi phí về con giống. Nếu ao có lỗ muội bị rò rỉ, không diệt được tạp triệt để thì phải thả cá cỡ 5 – 6 cm hoặc cá lứa (10 – 12 cm), nhằm giảm được tỷ lệ hao hụt của cá nuôi.
3. Mật độ thả
Nuôi đơn
Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch
3 – 4 60 – 70 Sau 3 tháng nuôi
4 – 6 40 – 50 Sau 3 tháng nuôi
5 – 7 30 – 40 Sau 3 tháng nuôi
10 - 12 20 - 30 Sau 2,5 tháng nuôi
Nuôi ghép
Mục đích là tận dụng hết thức ăn trong ao nuôi, có thể thả ghép cá trê vàng lai chung với các loại cá sau: rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật độ thả cho từng cá như sau:
Loại cá Cỡ cá (cm) Mật độ thả (con/m2) Thời gian bắt đầu thu hoạch
Trê vàng lai 4 – 6 10 Sau 3 tháng (= 250g/con)
Trôi 6 – 8 5 Sau 6 tháng (= 250g/con)
Chép 6 - 8 3 Sau 6 tháng (= 300g/con)
Rô phi 6 - 8 10 Sau 4 tháng (= 200g/con)
Trắm 6 - 8 1 - 2 Sau 8 tháng (= 500g/con)
Trong trường hợp này thời gian thu hoạch sẽ thay đổi theo lại cá, tốc độ lớn, kích cỡ thương phẩm được thị trường ưa chuộng. Như vậy sau thời gian nuôi 3 tháng sẽ thu hoạch và thả bù cá trê vàng lai với kích cỡ lớn hơn, thường là 10 – 12 cm hoặc 12 – 15 cm, thả bù cá rô phi cỡ 8 – 10 cm sau khi kéo lưới thu hoạch đợt 1.
Nuôi cá đánh tỉa thả bù
Thường phải chuẩn bị thêm một ao nhỏ để ương cá lứa thả bù. Diện tích ao khoảng 100 – 300 m2 ao phải được cải tạo tốt, có thể thả cá cỡ 3.000 – 4.000 con/kg (cá 2 – 3 cm) hoặc cỡ 3 – 4 cm. Mật độ thả các loại này như sau:
Cỡ cá (cm) Số con/kg Mật độ thả (con/m2)
2 – 3 3.000 – 4.000 100 - 120
3 - 4 1.800 – 2.200 80 - 100
Sau 2 tuần nuôi, cá đạt kích cỡ 12 – 15 cm, cá được thả bù vào các ao nuôi có diện tích lớn hơn nhưng khó thu cạn hoặc vào những ao nuôi ghép nhiều loại cá có thời gian thu hoạch khác nhau.
4. Thức ăn nuôi cá và chăm sóc
Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn, có tập tính ăn gần tương tự như cá trê vàng. Thức ăn nuôi cá thường gồm các loại phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh như đầu vỏ tôm, da ruột mực, đầu lòng cá, ruột sò điệp … cám thức ăn gia súc, cám gạo, bắp xay, con ruốc, cá phân (xay).
Ngoài ra, để giúp tăng trưởng nhanh, ít bệnh, trong quá trình nuôi cần định kỳ bổ sung premix vitamin (loại dùng cho heo thịt) 1 tuần 1 lần với lượng 1 – 2% của tổng lượng thức ăn cho ăn trong ngày.
Trong hai tuần đầu khi mới thả cá còn nhỏ nên băm thức ăn để vừa với cỡ miệng của cá.
Bắp xay nên ngâm nước cho noẻ khoảng 15 – 20 phút trước khi nấu với nước sôi. Sau khi nấu chín trộn với cám khô theo tỷ lệ 1/1 rồi trộng tiếp với con ruốc hoặc cá phân.
Nếu cho ăn thức ăn tươi (đầu tôm, lòng ruột cá …) lượng thức ăn cho ăn trong 1 ngày bằng 10 – 15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp… lươngj thức ăn cho cá ăn trong 1 ngày bằng 5 – 7% trọng lượng cá dự đoán.
Trường hợp nuôi ghép chung với các loại cá khác (chép, trắm, trôi…) thì nên dùng kết hợp thức ăn tinh với thức ăn tươi theo tỷ lệ 1/1. Nếu cá ghép trong ao đã lớn thì có thể cho ăn bắp hột (xay thô) ngâm nước mà không cần phải nấu chín.
Nếu cho ăn ở những vị trí cố định trong ao, thường xuyên phải theo dõi và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.
Trong thời gian nuôi cần theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao. Sau một tháng đầu, cá tương đối lớn, có thể định kỳ lấy nước vào trong ao, cứ 5 – 7 ngày một lần thay khoảng 30% nước trong ao. Sử dụng nhiều thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước thường xuyên hơn.
Nếu khẩu phần thức ăn trong ngày của cá được đầy đủ các loại thức ăn như đã kể trên: cám, bắp, premix vitamin, ruột sò, đầu tôm… cá nuôi sẽ mau lớn và đến cỡ thu hoạch (150 – 200g/con) da thịt cá sẽ vàng dần gần tương tự như cá trê vàng. Trong trường hợp ao bị phèn hoặc pH có độ pH thấp, da cá sẽ có màu xám, ít vàng nên trong mùa mưa phải thường xuyên rắc vôi quanh bờ ao. Cá nuôi ở vùng đất đỏ hoặc ở môi trường ao tù, nước đục da cũng sẽ có màu vàng đẹp hơn cá nuôi ở trong ao nước sạch (nước ra vào hàng ngày). Vì vậy, trước khi thu hoạch khoảng 10 – 15 ngày nên đóng bọng không cho nước ra vào.
5. Một số bệnh
5.1. Một số bệnh trên cá hương, cá giống
Ương cá trê vàng lai từ cá bột lên đến cỡ cá hương, cá giống là một giai đoạn rất quan trọng. ở giai đoạn này da cá mỏng, rất nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường bên ngoài nên cá dễ bị nhiễm bệnh, ảnh hưởng đến tốc đọ tăng trưởng, có khi gây chết hàng loạt.
Bệnh trắng mình
* Dấu hiệu: Thân cá có nhiều mảng trắng, cá bị tuột nhớt, râu cong quặp cá treo thân thẳng đứng với mặt nước hoặc bơi lội lờ đờ, chết rất nhanh với số lượng lớn. Bệnh có thể xảy ra ở cá bột cỡ 5 – 7 ngày tuổi, cỡ cá giống lớn 6 – 8 cm vẫn có thể nhiễm bệnh này.
* Nguyên nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Flexibater columnaris, bệnh thường xảy ra ở các bể ương với mật độ dày, chất lượng nước xấu, nước bị thối bẩn do thay nước không thường xuyên. Vi khuẩn xâm nhập các cơ quan nội tạng của cá, huỷ hoại mang và các tế bào ở da cá làm cá khó thở, gây chết. ở bệnh này cùng với sự xâm nhập của vi khuẩn, nấm và nguyên sinh động vật gây bệnh cũng đồng thời xâm nhập làm cá chết rất nhanh.
* Cách xử lý: Trong bể xi măng hoặc bể bạt dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 – 20ppm kết hợp với Formalin 25 ppm (25 ml/1 m3 nước). Hoặc dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 – 20ppm kết hợp với muối ăn
6. Thu hoạch
Sau 2 tháng rưỡi đến 3 tháng nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm (150 – 250g/con). Lúc này hình dáng bên ngoài của cá trê vàng lai sẽ rất giống cá trê vàng (chỉ khác nhau ở chỗ u lồi xương chẩm). Thu hoạch đợt 1 xong sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10 – 15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt 2. Thường ở đợt này lượng cá thu hoạch sẽ được nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ hơn so với đợt 1. Nếu trong ao vẫn còn một số cá chưa đạt quy cỡ thì sẽ nuôi vỗ tiếp tục 2 tuần nữa và thu hoạch toàn bộ.
Huyện Bình Chánh (ngoại thành TPHCM) và đặc biệt là xã Bình Trị Đông do điều kiện đặc biệt của các ao nuôi ở đây là ao tù và rất sâu (5 – 8 m nước), phần lớn đều nuôi theo phương pháp đánh tỉa thả bù. Sau khi đã thu hoạch đợt 1, sau 20 ngày sẽ tiếp tục thu hoạch đợt 2… thu như vậy khoảng 4 đợt, lượng cá trong ao chỉ còn sót lại một ít, sẽ thả cá lứa12 – 15 cm xuống bổ sung. Số lượng cá thả được tính theo diện tích mặt nước ao, thường khoảng 20 – 30 con/m2 hoặc nông dân còn tính theo m3 nước, thường là 6 – 7 con/m3 nước. Tại các ao nuôi ở vùng này, nếu cá được cho ăn đầy đủ, ao nuôi chuẩn bị đúng theo yêu cầu kỹ thuật, chất lượng nước trong ao tốt, cá nuôi không bị bệnh thì sau 3 tháng nuôi sẽ đạt năng suất từ 3 – 5 tấn/1.000m2 (30 – 50 tấn/ha). Tỷ lệ sống của cá thường từ 40 – 60%.
Nên thả cá giống ngay từ đầu vụ nuôi (tháng 3 – 4 âm lịch) để đến thời điểm thu hoạch vào tháng 6, 7, 8 âm lịch cá thịt bán được giá cao, chi phí đầu tư con giống rẻ, dễ nuôi hơn lúc cuối vụ (do thời tiết cuối vụ thường lạnh, cá dễ bị bệnh).
Sau khi trừ chi phí cải tạo ao, con giống, thức ăn, công chăm sóc bảo vệ… người nuôi thường có thể được lãi 40 – 45% so với tiền vốn bỏ ra ban đầu. Thu hoạch cá vào những mùa đụng cá đồng (thả cá giữa và cuối vụ) thì tiền lãi thu được sẽ thấp hơn do giá con giống cao, giá cá thịt rẻ, thường chỉ lãi 20 – 25% so với tiền vốn ban đầu.
|