Cây dưa chuột

Đặc tính sinh học:
-  Dưa chuột thuộc nhóm cây ưa nhiệt. Hạt có thể nảy mầm ở nhịêt độ12- 1 oC. Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng, phát triển của cây dưa chuột là 25 - 0oC. Nhiệt độ cao hơn sẽ làm cây ngừng sinh trưởng và nếu kéo dài nhiệt độ 5 - 40oC cây sẽ chết. ở nhiệt độ dưới 15oC cây sẽ phát sinh trạng thái mất cân bằng giữa quá trình đồng hoá và dị hoá...

Qua nghiên cứu trong điều kiện làm lạnh nhân tạo cây con dưa chuột ở nhiệt độ 5 - 10oC trong vòng 10 ngày, các giống dưa chuột Việt Nam và Trung Quốc có sức chịu lạnh cao hơn các giống Châu u và Mỹ. Nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian ra hoa của cây. ở nhiệt độ thích hợp cây ra hoa ở ngày thứ 26 sau khi nảy mầm. Nhiệt độ càng thấp thời gian này càng kéo dài. Tổng tích ôn từ lúc hạt nẩy mầm đến hết thu hoạch là 1650oC.
- Dưa chuột thuộc nhóm cây ưa ánh sáng ngày ngắn. Độ dài chiếu sáng thích hợp cho cây sinh trưởng và phát dục là 10 - 12 giờ/ngày. Nẵng chiều có tác dụng tốt đến hiệu suất quang hợp, làm tăng năng suất, chất lượng qủa và rút ngắn thời gian lớn của quả. Cường độ ánh sáng thích hợp cho dưa chuột trong phạm vi 15000 - 17000lux.
- Quả dưa chuột chiếm tới 95% nước nên yêu cầu về độ ẩm cho cây rất lớn. Mặt khác do bộ lá lớn , hệ số thoát nước cao nên dưa chuột là cây đứng đầu về nhu cầu nước trong họ bầu bí. Độ ẩm thích hợp cho dưa chuột 85 - 95%, độ ẩm không khí 90 - 95%. Cây dưa chuột rất yếu chịu hạn. Thiếu nước cây không những sinh trưởng kém mà còn tích luỹ lượng Cucurbitaxina là chất gây đắng trong quả. Thời kỳ cây ra hoa, tạo quả yêu cầu lượng nước cao nhất.
- Do bộ rễ kém phát triển , sức hấp thụ của rễ lại kém nên dưa chuột yêu cầu nghiêm khắc về đất trồng hơn các cây khác trong họ. Đất trồng thích hợp là đất có thành phần cơ giới nhẹ như đất cát pha, đất thịt nhẹ, độ pH thích ứng 5,5 - 6,5.
- Nghiên cứu về hiệu suất sử dụng phân khoáng chủ yếu của dưa chuột thấy rằng: Dưa chuột sử dụng kali với hiệu suất cao nhất, thứ đến đạm rồi đến lân. Khi bón N60 P60 K60 thì dưa chuột sử dụng 92% đạm, % lân và 100% kali. Dưa chuột không chịu được nồng độ phân cao nhưng lại nhanh chóng phản ứng với hiện tượng thiếu dinh duỡng. Phân hữu cơ, đặc biệt là phân chuồng có tác dụng rõ rệt làm tăng năng suất ruộng dưa chuột.
. Giống dưa chuột:
* Để sử dụng cho chế biến, các giống dưa cuột hiện đang trồng ở nước ta được phân thành các nhóm như sau:
- Nhóm quả nhỏ, có chiều dài dưới 11cm, đường kính 2,5 - ,5cm. Nhóm này có TGST ngắn (65 - 80 ngày tuỳ vụ trồng). Năng suất khoảng 15 - 20 tấn /ha (7tạ/sào). Dạng này sử dụng cho muối nguyên quả. Thuộc nhóm quả nhỏ hiện có 2 giống đang trồng phổ biến ở Vĩnh Phúc và Hải Dương.
- Nhóm quả trung bình , gồm hầu hết các giống địa phương trồng trong nước và giống H1 (giống lai tạo). Quả có kích thước 1 - 20 x ,5 - 4,5 cm. Thời gian sinh trưởng 75 - 85 ngày năng suất 22 - 25 tấn/ha (8 - 9 tạ/sào). Một số giống trong nhóm này (H1, ên Mỹ, Nam Hà) có thể sử dụng để chẻ nhỏ đóng lọ thuỷ tinh. êu cầu của sản phẩm chế biến này là quả có kích thước 12 - 14 x ,5 - 4,5 cm, ruột đặc vỏ mầu quả trắng, khi chế biến có mầu vàng tươi.
* Trong số các giống nhập nội, có hai nhóm đuợc trồng phổ biến:
- Nhóm quả rất nhỏ, hay còn gọi dưa chuột bao tử cho sản phẩm để chế biến là quả 2 - ngày tuổi. Tuỳ theo yêu cầu của của đối tượng khách hàng, quả sử dụng có khối lượng 150 - 220 quả/kg. Phần lớn các giống thuộc nhóm này thuộc dạng cây 100% hoa cái như F1 Marinda, F1 Dunjia, F1 Levina (Hà Lan) và 1 số giống của Mỹ. Riêng giống Marinda qủa mọc thành chùm ( - 5 quả) trên mỗi kẽ lá. Mặc dù năng suất không cao ( - 8 tấn/ha), song giá trị thương phẩm lớn nên trồng các giống này vẫn hiệu quả. Một khó khăn lớn của sản xuất với nhóm quả bao tử là các giống bị bệnh, chủ yếu là sương mai từ trung bình đến nặng, trong vụ xuân bị sâu vẽ bùa phá hoại đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng suất của giống.
- Nhóm quả to, các giống lai F1 của Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lanợ Các giống của Đài Loan có kích thước 25 - 0 x 4,5 - 5 cm, quả mầu hình trụ xanh nhạt, gai trắng.
- Các giống Nhật Bản quả dài hơn ( 0 - 45 x 4 - 5 cm/ha), quả nhăn hoặc nhẵn, gai quả mầu trắng, vỏ quả mầu xanh đậm.
- Các giống trên có năng suất khá cao (trung bình 0 - 5 tấn/ha, thâm canh tốt có thể đạt hơn 40 tấn/ha). Quả sử dụng để ăn tươi hoặc muối mặn.
. Kỹ thuật trồng:
1 Thời vụ.

Trong điều kiện Đồng bằng, Trung du Bắc bộ và khu 4 cũ, dưa chuột có thể trồng 2 vụ trong năm.
- Vụ xuân: Là vụ chính, gieo hạt từ sau tiết lập xuân đến đầu tháng . Nếu gieo sớm hơn, thời tiết quá lạnh sẽ kéo dài thời gian sinh trưởng và cây sinh trưởng yếu. Nếu gieo muộn, gặp nhiệt độ cao và mưa sớm làm giảm tỷ lệ đậu quả, năng suất sẽ thấp.
- Vụ thu đông, đông: Gieo hạt từ tháng 8 đến đầu tháng 10. Thu từ tháng 10 đến tháng 12.
- Các tỉnh phía Nam gieo hạt cuối tháng 4, đầu tháng 5, thu hoạch giữa tháng 6 đến hết tháng 7.
2. Làm đất, bón phân.
- Do bộ rễ phát triển yếu nên đất trồng dưa chuột nên làm kỹ. Sau khi cầy bừa, tiến hành lên luống ngay, tránh gặp mưa, nhất là vào vụ đông. Rạch hàng chia luống với khoảng cách 1,5m mỗi luống (mặt luống 1,2 m, rãnh 0, m) cao 0, m.
* Lượng phân bón cho dưa chuột trên 1 hecta dược tính toán như sau:
- Phân chuống mục : 20 tấn (7 tạ/sào).
- Đạm urê :150kg (5 - 6 kg/sào).
- Supe lân : 200 (7 kg/sào).
- Kali sunphat : 220 kg (8 kg/sào).
Đất hơi chua, pH dưới 5,0 có thể bón thêm 0kg vôi bột/sào.
Phân chuồng, vôi bột và lân bón lót toàn bộ cùng với 1/ số lượng phân đạm và kali. Số còn lại dùng để bón thúc, kết hợp xới vun.
- Phân bón lót được bỏ vào hốc, đảo đều và lấp một lớp đất nhẹ. Hạt gieo 2 hàng trên luống với khoảng cách 60cm, mỗi hốc cách nhau 40 cm. Mật độ trồng .000 hốc/ha (1.200 - 1. 00 hốc/sào). Mỗi hốc để 1 cây. Lượng hạt chuẩn bị gieo để trồng cho 1 ha là 700g (tốt nhất là gieo hạt trong bầu để tiết kiệm giống). Giống lai F1 có thể rút bớt lượng hạt giống, mật độ 25.000 - 27.000 cây/ha.
- Trong vụ xuân, ở nhiệt độ thấp (dưới 15oC) có thể ủ mầm cho hạt nứt nanh mới gieo. Hạt gieo sâu 1 - 1,5 cm, rắc một lớp đất mịn lên trên, sau đó phủ một lớp mùn mục hoặc trấu lên trên trước khi tưới ẩm lên hạt giống. 
3.  Chăm sóc.
- Cây 4 - 5 lá thật, lúc ra tua cuốn, tiến hành xới vun kết hợp với bón thúc1/ số đạm và kali còn lại. Sau khi bón phân xới vun luống, nhặt cỏ kết hợp với tưới nước rãnh cho cây nêu trước đó và khả năng sau đó 5 - 7 ngày không có mưa. Tát nước đầy rãnh, ngâm - 4 giờ cho ngấm rồi tháo cạn hết nước. Sau - 4 ngày khi rãnh khô, đất còn ẩm tiến hành cắm giàn cho cây.
- Giàn dưa chuột cắm theo hình chữ nhân. Mỗi sào cần 1.400 - 1.500 cây dóc (mỗi hốc bình quân 1,2 dóc). Sau khi cắm, buộc giàn chắc chắn, dùng dây mềm treo ngọn dưa trên giàn. Công việc này làm thường xuyên đến khi cây ngừng sinh trưởng (thu - 4 lứa quả).
- Số phân đạm, kali còn lại dùng để tưới thúc cho cây sau lần thu hoạch quả đầu và 10 - 15 ngày sau đó. Nếu gặp trời mưa, đất ẩm dùng cuốc nhỏ bổ hốc giữa hai gốc cây, bón phân và lấp đất, kết hợp làm cỏ và loại bỏ lá già, lá bị bệnh.
- Sau mỗi lần thu, nếu có nước phân ngâm pha loãng tưới cho cây sẽ kéo dài thời gian thu hoạch quả.
4. Phòng trừ sâu bệnh.
* Dưa chuột thường gặp một số loại bệnh sau đây:
+ Bệnh sương mai:
- Là bệnh nguy hiểm, gây hại cho dưa chuột ở tất cả các vụ trồng. Vào thời kỳ có nhiệt độ thấp (dưới 20oC ) và độ ẩm không khí cao, bệnh gây các vết thâm vuông cạnh dưới mặt lá, làm chết các tế bào, dần tới khô lá.
- Dùng Boócđô 1% hoặc Zineb 80% phun phòng và trị bệnh. Ngoài ra có thể dùng Ridomin MZ 72 WP, Alliette 80 WP, Anfamil ợ phun trừ.
+ Bệnh phấn trắng:
- Bệnh phát triển giữa hoặc cuối thời kỳ sinh trưởng. Các giống địa phương ít bị bệnh. Các giống nhập nội nhiễm bệnh nặng hơn.
- Dùng Bayleton dạng sữa 25%, hoặc
ncoleton 25% phun trừ. Ngoài ra, có thể dùng Sumi - 8 loại bột thấm nước 12,5% pha với nước nồng độ 0,01% để phun.
5. Thu hoạch.
- Quả 7 - 10 ngày tuổi (dưa chuột bao tử 2 - ngày tuổi) có thể thu hoạch. Nếu để quả già sẽ gây ảnh hưởng tới sự ra hoa đậu quả các lứa tiếp theo. Năng suất sẽ giảm. Quả nên thu vào buổi sáng để buổi chiều tưới nước phân. Thời kỳ rộ quả có thể thu 2- ngày một đợt.
6. Để giống.
- Để làm giống, ruộng dưa chuột giữa các giống khác nhau phải có khoảng cách cách ly ít nhất 2km. Mỗi cây lấy - 4 quả giống. Sau khi thu lứa đầu quả thương phẩm, để những quả giữa thân làm giống. Các hoa cái khác ra sau đó loại bỏ hết để tập trung dinh dưỡng nuôi quả giống.
- Quả giống 25 - 0 ngày tuổi, thu về để chín sinh lý 4 - 5 ngày. Bổ dọc quả, lấy thìa con cạo hạt ngâm vào chậu nhựa một ngày đêm, sau đó đãi kỹ, phơi - 4 nắng nhẹ.
- Hạt cất vào lọ, chum vại, dưới có một lớp vôi cục, nắp kỹ, có thể sử dụng sau - 4 năm cất giữ.
- Các giống lai F1 không để giống cho vụ sau được./.
 

Trung tâm khuyến nông Hải Dương