Gió lốc có những hiện tượng gì?

Mấy năm gần đây, ở hạ lưu sông Trường Giang Trung Quốc thường xuất hiện những cơn lốc mạnh. Điều này đã khiến mọi người phải chú ý. Đài khí tượng thủy văn ở Thượng Hải luôn phải thông báo trước mỗi lần lốc đến. Lần đầu tiên trên đường Nam Thông xuất hiện kiểu dự báo thời tiết rất đặc biệt chỗ nào cũng thấy đèn thông báo “ Gió lốc sắp đến” kèm theo cả thuyết minh của tổ khí tượng. Đây có thể coi là một nét đặc trưng của Nam Thông.

 

Gió lốc quả là đáng sợ. Đêm ngày 2 tháng 8 năm 2003 ở Thiện Đầu (Trung Quốc) đã xảy ra gió lốc. Sau cơn lốc, theo số liệu điều tra chưa đầy đủ, chỉ tính riêng thành phố Thiệu Đầu, số người chết lên tới 5.000. Thiệt hại về tài sản khoảng trên 10 triệu nhân dân tệ. Hạ lưu sông Trường Giang tháng 8 năm 2002, xảy ra liên tiếp 3 đợt gió lốc kèm theo lũ lụt, úng ngập ở Giang Nam, Triết Tây; khủng hoảng tài chính ở Tô Châu đến nay vẫn còn bị ảnh hưởng bởi đợt gió lốc năm 2002. Những cơn lốc đáng sợ này không phải mấy năm gần đây mới xuất hiện, mà trước đó cùng đã từng xảy ra trong lịch sử Trung Quốc. Đáng nhớ nhất là cơn lốc vào khoảng tháng 8 năm 1281. Khi đó Nguyên Thế Tổ lệnh cho thừa tướng A Thích Hãn dẫn 10 vạn quân, 3 nghìn tàu chiến vượt biển Nhật Bản. Chính vì thế, quân Nhật chẳng phải hao tâm tổn sức mà vẫn giành chiến thắng, còn 10 vạn hùng binh của Nhật. Trong Thích Hãn thì đại bại, trở thành tù binh của Nhật. Trong 10 vạn người ấy chỉ còn lại 3 người sống sót, đó là 3 người mà quân Nhật thả về để báo tin.
Gió lốc vừa đáng sợ vừa chứa nhiều điều bí ẩn đã lôi kéo nhiều người bắt tay vào nghiên cứu hiện tượng đó. Để hiểu về gió lốc, trước tiên chúng ta phải nghiên cứu gió là gì? Trang Tử đã nói: “ Thổi một hơi mạnh, đấy tức là gió”. Điều này cho thấy gió chính là do sự lưu động của không khí. Nhưng vì sao không khí lại lưu động? Chúng ta biết rằng không khí trên mặt đất có độ dày mỏng khác nhau. Không khí được đẩy từ nơi khí áp cao xuống chỗ khí áp thấp và tạo thành gió. Còn áp suất vì sao lại có sự cao thấp khác nhau? Đó là vì hai nguyên nhân chính: Thứ nhất là do nhiệt độ càng cao thì áp suất càng thấp; thứ hai là do những vòng xoáy luân chuyển của không khí, trung tâm của vòng xoáy đó là nơi có khí áp thấp nhất.
Trên toàn cầu, đường xích đạo và hai cực Nam - Bắc là nơi có khí áp thấp. Nhiệt độ ở đường xích đạo cao nên đã gây ra khí áp thấp. Nhiệt độ ở đường xích đạo cao nên đã gây ra áp suất thấp ở đó. Còn ở Nam cực có khí áp thấp là do địa cầu tự chuyển động. Lưu li tâm ở Nam- Bắc cực là lớn nhất, như vậy khí áp thấp ở xích đạo và hai cực Nam Bắc đã khiến cho vĩ tuyến 370 giữa Nam Bắc cực trở thành nơi có khí áp cao. Gió thổi từ cao xuống thấp nên trong vùng nhiệt đới Bắc bán cầu có nhiều gió bắc, còn vùng ôn đới lại nhiều gió nam. Tuy nhiên, do Trái đất luôn luôn tự chuyển động khiến cho gió ở Bắc bán cầu chuyển sang hướng phải, nên vùng nhiệt đới Bắc bán cầu lại nhiều gió đông bắc, tức là gió mậu dịch ( gió mùa); còn ở phía nam bán cầu gió lại chuyển sang trái, nên khu nhiệt đới nhiều gió đông nam, tức gió mùa đông nam, còn trong vùng ôn đới thì nhiều gió tây bắc.
Xích đạo là một đường giả định về mặt địa lý, đường luôn cố định, khí áp trên xích đạo tuỳ theo nhiệt độ mà biến đổi và cũng có thể di chuyển được. Vào mùa hè, nhiệt độ ở Bắc bán cầu cao nên khí áp chuyển dời lên phía Bắc xích đạo. Còn vào mùa đông, khí hậu ở Nam bán cầu là rất nóng, khí áp thấp lại chuyển sang phía nam xích đạo. Khí áp thấp trên xích đạo lưu động không cố định khiến cho gió cũng lưu động theo. Mùa hè, gió mùa Đông Nam ở Nam bán cầu lại sâm nhập sang Bắc bán cầu, nhưng vừa tràn vào Bắc bán cầu, do ảnh hưởng bởi sự chuyển động của Trái đất nên trở thành gió Tây Nam. Đến mùa đông, gió mùa Đông bắc Bắc bán cầu tràn sang Nam bán cầu, trở thành gió Tây Bắc.
Những điều kiện trên là khái quát về sự phân bố khí áp vùng gió. Những nơi mà khí áp thấp không duy trì ổn định chính là nơi sẽ xuất hiện gió bão. Không khí bên trái của vùng gió bão điều thổi về hướng trung tâm bão. Tuy nhiên, ở vùng Bắc bán cầu do ảnh hưởng của bảo, sự chuyển động của Trái đất, nên lại dần chuyển sang trí. Vùng ôn đớn, nhiệt độ điều có gió bão nhưng có đặc điểm khác nhau. Sự khác nhau này, có thể thấy rõ ở 4 điểm sau:
+ Hướng thổi: Gió bão ôn đới thổi theo hướng Đông, gió bão vùng nhiệt đới lại thổi theo hướng Tây.
+ Tốc độ thổi: Ở vùng ôn đới tốc độ gió rất nhanh, như vùng Lư Ninh (Trung Quốc) tốc độ gió bão đi là trên 50 km/h. Ở vùng nhiệt đới tốc độ gió chậm.
+ Phạm vi có gió bão: Vùng ôn đới phạm vi gió bão tuy nhỏ nhưng vận tốc đạt tới 2 nghìn km/h. Còn ở vùng nhiệt đới thì thông thường không quá 8- 9 km/h.
+ Mức độ gió bão: Ở vùng nhiệt đới, phạm vi gió bão nhỏ nhưng rất lớn và mạnh hơn nhiều so với vùng ôn đới.
Một tờ báo của tỉnh Phú Kiến viết: “ Gió to mạnh thì giọ là lốc, to hơn nữa thì giọ là Đài ”. Lốc thì thường đến bất ngờ, còn gió Đài ( gió thổi từ Thái Bình Dương) thì có lúc chậm, có lúc bất ngờ, có thể kéo dài liên tục trong nhiều ngày nhưng cũng có thể chỉ vài giờ. Khoảng chính giữa tháng 2, tháng 3 thường có lốc, tháng 5, 6, 7, 8 thì thường có gió Đài.
Báo chí Anh thường gọi những loại gió bão như vậy là gió Đài ( Typhoon – bão), đây chính là phiên âm của từ “đài phong” (gió Đài).
Như vậy, qua cách giải thích đơn giản ở trên, chúng ta hiểu thực chất ở đây là gió Đài chứ không phải gió lốc. Nói gió Đài , có thể phân thành 4 vấn đề: Thứ nhất là khu vực gió Đài; thứ hai là nguyên nhân xuất hiện gió Đài; thứ ba là thời gian phát hiện giò Đài; thứ tư là sự ảnh hưởng của gió Đài đến khí hậu và cách dự phòng. Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về những vấn đề đó.

TTTH