Một số lưu ý trước khi vào vụ nuôi tôm xuân hè 2013

Năm 2013, được dự báo là năm thời tiết có nhiều diễn biến bất thường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Đầu năm, chịu nhiều đợt rét đậm, rét hại kéo dài (do rét muộn). Bên cạnh đó, giá cả đầu vào phục vụ nuôi tôm tăng cao là thách thức không nhỏ đối với người nuôi. Để vụ nuôi tôm xuân hè 2013 đạt hiệu quả cao, bà con cần làm tốt một số khâu kỹ thuật như sau:

 Đầu tiên là chuẩn bị ao, đầm trước khi thả giống: đây là khâu rất cần thiết vì nếu tạo được môi trường ổn định, không có mầm bệnh trong ao khi khi thời tiết thay đổi mới tránh cho tôm không bị nhiễm bệnh. Tôm là loài sống bám đáy, vì vậy môi trường đáy ao có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh trưởng và phát triển. Sau mỗi vụ nuôi, đáy ao thường tích tụ những lớp chất thải, bùn đáy nhiễm bẩn là môi trường thuận lợi cho các loại vi khuẩn gây hại phát triển, tạo ra các loại khí độc như NH3, H2S... gây hại cho tôm nuôi. Bà con cần tháo cạn hoặc bơm để vét lớp bùn đáy, chất thải, kết hợp bón vôi nông nghiệp với liều lượng 25-35kg/sào ao, sau đó cày bừa để làm khoáng hóa đáy ao và nâng cao pH lớp đáy. Nếu có thể được, nên phơi đáy ao từ 3-5 ngày; lưu ý những nơi có bùn loãng có màu đen, mùi thối cần tăng lượng vôi bón.
Sau khi cải tạo ao chu đáo, tiến hành lấy nước và gây màu. Để gây màu nước, bà con nên dùng các loại phân như: hỗ hợp đạm – lân với tỷ lệ 2:1, urê 0,5-0,7kg/sào; NPK (3:5:1) 0,7-1,0kg/sào, hòa nước tạt đều khắp ao; hoặc có thể dùng phân gây tảo có bán tại các đại lý, liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì. Nếu dùng phân hữu cơ (phân chuồng của trâu bò) lượng dùng từ 15-20kg/sào, phân phải được ủ kỹ với 5% vôi trong thời gian 30 ngày trước khi bón. Thông thường gây màu nước nên dùng phân vô cơ trước để tảo phát triển nhanh (màu nước), sau đó dùng phân hữu cơ để duy trì sự phát triển lâu bền của màu nước.
Tiếp đó là chọn giống và thả nuôi: lựa chọn được con giống tốt cũng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành bại của cả một vụ nuôi. Bà con nên chọn những cơ sở sản xuất giống có uy tín, con giống phải rõ nguồn gốc xuất xứ và đặc biệt phải được kiểm dịch kỹ trước khi thả xuống đầm nuôi. Tiêu chuẩn chọn con giống trước hết dựa vào kích thước tôm phải đều. Trong nguồn tôm có nhiều con có kích thước khác nhau có thể không phải là nguồn một con tôm mẹ mà có thể có nhiều con tôm mẹ khác nhau hoặc thời gian nở khác nhau hoặc kỹ thuật người nuôi không tốt…. Nếu kích thước khác nhau thì rất bất lợi trong việc quản lý cho tôm ăn, nó sẽ cạnh tranh thức ăn của nhau. Tiêu chuẩn để có đàn tôm giống tốt phải có độ đồng đều, đối với tôm sú dài 12 mm và 9 mm đối với tôm thẻ; tôm giống có kích thước nhỏ hơn chiếm tỷ lệ không quá 5% tôm giống.
Tôm giống có màu sắc đen tro là tốt nhất. Không nên sử dụng những loại tôm có nhiều màu hoặc tôm có màu trắng bợt. Đó là loại tôm đã rất yếu, nếu chăm sóc không tốt, tỉ lệ hao hụt sẽ rất cao. Các bộ phận khác như chân, râu phải hoàn chỉnh và không dị hình. Khi bơi, chân đuôi phải xòe ra hết cỡ đó là loại tôm giống khỏe. Thịt phần bụng phải đầy đặn, căng và chắc, ngoài vỏ phải nhẵn và bóng là loại tôm khỏe.
Trên thân tôm sú có 6 đốt ở phần bụng, các đốt bụng dài. Đối với tôm thẻ các đốt bụng có hình chữ nhật, đầu và thân cân đối. Kinh nghiệm cho thấy, những con tôm sú có đốt bụng càng dài thì nhanh lớn hơn những con tôm có đốt bụng ngắn. Quan sát kỹ thấy có trên 3 con bị vật lạ vi nấm bám vào là không nên dùng, vì sau này chúng không lột được vỏ, sẽ bị chết. Bình thường nếu tôm khỏe, có khả năng bơi ngược dòng nước chảy hoặc nếu nước chảy xiết thì có thể bám vào các vật thể để tránh bị trôi đi. Lấy 200 con ngẫu nhiên trong đàn tôm rồi thả vào chậu đựng nước trong. Sau đó, dùng tay khuấy tròn quanh thành chậu. Nếu thấy trên 10 con trôi theo dòng nước hoặc bị cuốn ở giữa đáy chậu đó là tôm yếu….
Ngoài ra, bà con có thể đánh giá sức khỏe của tôm giống bằng phương pháp gây sốc Formol nồng độ 2-2,5ml/10 lít trong 30 phút. Nếu tỷ lệ tôm chết không quá 5% là đàn tôm tốt. Hoặc bằng cách hạ độ mặn đột ngột, lấy 100-150 con tôm P15 cho vào bình chứa 1 lít nước bể ương. Nếu nước trong bể ương tôm có độ mặn trên 20%o cho thêm nước ngọt vào làm cho giảm độ mặn đột ngột xuống một nửa (tức là cho một lít nước trong bể ương tôm và 1 lít nước ngọt). Nếu độ mặn thấp hơn 15%o có thể cho tôm vào thẳng trong môi trường nước ngọt. Sau 2 giờ quan sát nếu tỷ lệ tôm chết dưới 5% là đàn tôm tốt. Đặc biệt lưu ý, tôm giống phải được kiểm tra của cơ quan chức năng về các bệnh ký sinh trùng, MBV, hội chứng taura...
Về mùa vụ thả nuôi, bà con nên thả theo lịch mùa vụ của Sở NN&PTNT, trong đó vụ chính bắt đầu thả từ tháng 4 đến 30/6 (đối với tôm thẻ chân trắng) và thả từ tháng 4 đến 30/5 (đối với tôm sú). Sau vụ chính, những vùng nuôi có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt, môi trường nước ổn định đảm bảo thì có thể thả vụ phụ, thả từ 20/9 đến 30/10 (đối với tôm thẻ). Tôm sú không thả nuôi vụ phụ, mật độ nuôi tôm tùy theo điều kiện ao đầm, kinh nghiệm và khả năng về tài chính nhưng để có hiệu quả thì khi nuôi thâm canh tôm sú bà con nên thả 15-20 con/m2, kích cỡ giống Poslavar 15 và tôm thẻ 80-100 con/m2, kích cỡ giống Poslavar 12.
Sau cùng là khâu chăm sóc và quản lý: Trong 1-2 tháng đầu, cần chăm sóc cho ăn chu đáo để tôm khỏe mạnh; giữ cho môi trường ao nuôi luôn luôn ổn định, duy trì bón phân gây màu nước ao để có độ trong từ 30-35 cm, màu nước ao nuôi tốt nhất là màu nâu nhạt hoặc xanh lá chuối non, đặc biệt không để cho hiện tượng mất màu nước, tảo tàn. Trường hợp tảo bị tàn, cần xử lý ngay bằng cách dùng Zeolit hoặc chế phẩm sinh học để hạn chế tôm chết.

Theo Web Khuyến nông Nghệ An