Bệnh giun xoắn do T.SPIRSLIS

Bệnh giun xoắn Trichanella spiralis là một bệnh rất phổ biến của lợn vì lợn là loài rất mẫn cảm với bệnh này. Đó là một loại giun tròn đường ruột, có ấu trùng di trú thành kén trong các cơ.

I. Đặc điểm của bệnh
Bệnh giun xoắn Trichanella spiralis là một bệnh rất phổ biến của lợn vì lợn là loài rất mẫn cảm với bệnh này. Đó là một loại giun tròn đường ruột, có ấu trùng di trú thành kén trong các cơ. Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất thay đổi từ nhiễm trùng thể ẩn đến diễn biến lâm sàng trầm trọng gây ra tử vong, tuỳ theo số lượng của ấu trùng khu trú trong cơ. Triệu trứng sớm khá đặc trưng của bệnh là đau nhức cơ và phù nề mi mắt xuất hiện bất ngờ. Ngoài ra có thể gặp xuất huyết dưới giác mạc, võng mạc, dưới móng tay chân, đau nhức cơ và cảm giác sợ ánh sáng. Ngay sau đó là các triệu trứng khát nước, vã mồ hôi, ớn lạnh, mệt mỏi; kiệt sức và tăng bạch cầu ưo eosin trong máu. Trước khi có các triệu chúng ở mắt, có thể có ỉa chảy do tác động của các giun xoắn trưởng thành ở ruột non. Thường gặp các cơn sốt tới 400C, kéo dài xen kẽ nhau cho đến từ 1 – 6 tuần. Các biến chứng thần kinh và tim mạch có thể xuất hiện. Bệnh nặng có thể tử vong do suy cơ tim sau từ 1 – 8 tuần.
II. Tác nhân gây bệnh
Do Trichanella spiralis là một loài giun trên đường ruột gây lên, có kích thước nhỏ chỉ vài mm. Tuỳ địa điểm được phân lập mà giun xoắn được gọi dưới các tên khác nhau để phân biệt. Như loài giun được tìm thấy ở vùng Bắc Cực là T.nativa, Châu Phi: T.nelsoni, ở các vùng khác là T.pseudospiralis.
III. Điều kiện lưu hành
1. Động vật cảm nhiễm
Mọi lứa tuổi gia súc và người đều cảm nhiễm với bệnh. Lợn dễ mắc bệnh, nhất là vùng núi do hay ăn phải xác chuột có bệnh.
2. Nguồn tàng trữ mầm bệnh trong tự nhiên
Lợn, chó, mèo, ngựa, chuột, loài gặm nhấm và thú hoang kể cả cáo, chồn, chó sói, gấu, gấu Bắc Cực, lợn rừng và động vật có vú sống dưới nước ở vùng biển Bắc Cực, linh cẩu, chó rừng, báo, sư tử ở vùng nhiệt đới là nguồn tàng trữ mầm bệnh.
3. Đường lây truyền và thời gian lây truyền
Do ăn phải thịt và các sản phẩm của lợn như nem, tiết canh, sản phẩm thịt bò như món hambơgiơ có lẫn thịt sống có ấu trùng giun. Vào ruột non, ấu trùng phát triển thành giun xoắn trưởng thành. Giun cái đẻ ra ấu trùng. ấu trùng sẽ theo máu và hệ bạch huyết đi khắp cơ thể. Các ấu trùng đến các cơ vận động và tạo kén ở đó.
Thời kỳ ủ bệnh: ở lợn từ 7 – 14 ngày. Ở người từ 8 – 15 ngày. Thời gian ủ bệnh có thể thay đổi từ 5 – 45 ngày tuỳ theo số lượng ấu trùng xâm nhập cơ thể. Tuy nhiên chỉ sau vài ngày xâm nhập, là giun đã gây những triệu chứng đường tiêu hoá.
Thời kỳ lây truyền: Bệnh không truyền trực tiếp từ người sang người. Các động vật có khả năng truyền bệnh trong nhiều tháng. Trong thịt động vật, ấu trùng sống được trong thời gian khá dài.
4. Sức đề kháng của mầm bệnh với điều kiện tự nhiên và thuốc sát trùng
ấu trùng dễ bị tiêu diệt khi đun nóng, nấu chín thịt hoặc các sản phẩm gia súc nhiễm mầm bệnh. Trong thịt đông lạnh, ấu trùng sống được hàng tháng. Các hoá chất khó diệt ấu trùng vì có vỏ kén bao bọc.
5. Mùa phát sinh, phát triển của bệnh
Bệnh xảy ra không theo mùa nhất định.
6. Tình hình lưu hành
Bệnh gặp ở mọi miền trên thế giới, nhưng tỷ lệ thay đổi, một phần phụ thuộc vào thói quen sử dụng thịt lợn, các sản phẩm của chúng như ăn nem sống, thịt hun khói, tiết canh lợn, kể cả các thịt động vật hoang dã khác chưo nấu chín hoặc ăn tiết canh hoẵng, hươu nai, uống rượu tiết của loài gặm nhấm như con dúi… Mặt khác còn phụ thuộc vào trình độ chuẩn đoán và báo cáo bệnh của từng nước. Ở Mỹ, vào giữa thế kỷ XX đã có các cuộc điều tra mổ tử thi và đưa ra tỷ lệ nhiễm bệnh là 16,7%. Bệnh thường xuất hiện rải rác và các vụ dịch lẻ tẻ do người ăn xúc xích và các sản phẩm của thịt lợn, thịt của động vật có vú vùng Bắc Cực. Nhiều vụ dịch ở Châu Âu do ăn thịt ngựa bị nhiễm bệnh nhập từ Mỹ và các nước khác đã được báo cáo.
Châu Á và Châu Phi chắc chắn cũng có sự phổ biến của bệnh nhưng ít được nhận biết và báo cáo.
IV. Chẩn đoán
Trong thú y người ta thường lấy các mẫu cơ hoành của lợn trong các lò mổ đưa lên ép trên lam kính đặc biệt và soi trên kính Trichinoscope để tìm ấu trùng. Ở người, các xét nghiệm huyết thanh và huyết học thường được áp dụng để chẩn đoán bệnh, như hiện tượng tăng bạch cầu ưa eosin. Để xác định, người ta làm sinh thiết các cơ vận động từ 10 – 30 ngày sau khi mắc bệnh để tìm những nang kén có chứa ấu trùng của giun xoắn.
V. Phương pháp phòng chống
- Tẩy giun định kỳ cho lợn bằng Mebendazol, Ivermection.
- Chỉ ăn thịt lợn đã nấu chín.
- Xỷ lý thịt lợn bằng tia xạ gamma.
- Kiểm tra chặt chẽ thịt lợn ở lò mổ để loại trừ việc nhiễm ấu trùng giun xoắn.
- Nấu chín lòng, tiết và phủ tạng trước khi cho lợn ăn.
- Giáo dục các thợ săn khi ăn các loại thịt thú rừng phải nấu chín nhất là lợn rừng.
Điều trị: Mebendazol có hiệu quả ở các giai đoạn ấu trùng phát triển trong ruột và trong cơ. Tuy nhiên khi có số lượng lớn ấu trùng đã khu trú trong cơ, việc điều trị rất khó khăn, kém hiệu quả.

Trung tâm Khuyến nông Hải Dương