Vừa qua, ngày 22/4/2011 tại khách sạn La Thành, Hà Nội đã diễn ra Hội nghị tổng kết Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp giai đoạn 2005-2010 (gọi tắt là Chương trình 68).

Tới dự Hội nghị có thứ trưởng thường trực Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân (chủ trì Hội nghị), các ông Phạm Văn Mạch, nguyên phó Vụ trưởng Vụ KHCN & MT, Bộ NN & PTNT/Ông Chu Đức Khải, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ KH & CN, Bộ Công Thương/Ông Lê Đức Chương, Vụ trưởng Vụ KHCN & MT, Bộ VH-TT-DL/Ông Trần Việt Hùng, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, đại diện Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Tư Pháp, Bộ Y tế, đại diện các Sở Khoa học và Công nghệ trong cả nước có dự án 68, đại diện chủ nhiệm dự án như: các Trung tâm, Đài truyền hình các tỉnh,..đại diện các đơn vị phối hợp thực hiện, các viện nghiên cứu, các tổ chức tư vấn và đại diện các Hiệp hội được hưởng lợi trực tiếp từ Chương trình,...
Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Nguyễn Quân đã trình bày về tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hiện nay và cần thiết phải có các chương trình để phát triển tài sản trí tuệ đó, điều này đã được Bộ Khoa học và Công nghệ trình chính phủ phê duyệt "Chương trình phát triển tài sản trí tuệ cho doanh nghiệp giai đoạn 2005-2010" theo Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg ngày 4/4/2005 (gọi tắt là Chương trình 68). Thứ trưởng đã nhấn mạnh 2 mục tiêu chính đã đạt được của Chương trình, đó là:
- Thứ nhất là nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ để các doanh nghiệp chủ động xây dựng, khai thác phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ;
- Thứ hai là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc hỗ trợ xác lập, khai thác, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ;
Tuy đạt được 2 mục tiêu chính của Chương trình nhưng thứ trưởng đã chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và điều đó sẽ được khắc phục trong giai đoạn tiếp theo (giai đoạn 2011-2015).
Tiếp theo, ông Hoàng Văn Tân, Phó Cục Trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Thành viên – Trưởng ban thư ký Chương trình 68 giai đoạn 2005-2010) đã báo cáo tổng kết kết quả triển khai Chương trình giai đoạn 2005-2010 và kế hoạch triển khai Chương trình giai đoạn 2011-2015.
Theo báo cáo trong giai đoạn 2005-2010, hệ thống văn bản, bộ máy tổ chức đã được xây dựng và kiện toàn bảo đảm việc triển khai Chương trình một cách bài bản, khoa học; Công tác tuyên truyền, giới thiệu và hướng dẫn tham gia Chương trình 68 được tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức; Công tác tổ chức triển khai các nội dung Chương trình đã được thực hiện tích cực bao gồm: xây dựng, phê duyệt 06 danh mục với 119 dự án để tuyển chọn thực hiện, phê duyệt 84 dự án và đang tiếp tục thẩm định 27 dự án; Ký 60 Hợp đồng giao chủ trì thực hiện dự án và 23 Hợp đồng ủy quyền cho địa phương quản lý kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Trung ương cho thực hiện dự án; Tổ chức kiểm tra tình hình thực hiện dự án của 42 đơn vị chủ trì, từ đó kịp thời cấp phát kinh phí thực hiện dự án theo yêu cầu.
Tính đến hết tháng 12/2010, Chương trình đã sử dụng hết gần 53 tỷ đồng, trong đó: chi cho các hoạt động chung là 9 tỷ đồng và chi thực hiện các dự án là 44 tỷ đồng.
Báo cáo khẳng định: trong giai đoạn 2005-2010, hầu hết các nội dung của Chương trình đã được triển khai, bước đầu tạo ra một hướng đi mới cho các địa phương, đơn vị trong hoạt động hỗ trợ tạo dựng, phát triển tài sản trí tuệ. Chương trình đã đạt được nhiều kết quả, cụ thể: Góp phần mở rộng hoạt động sở hữu trí tuệ ra khắp cả nước, bao gồm cả các địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa; Nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ; Góp phần tăng số đơn đăng ký sở hữu công nghiệp của người Việt Nam; Bước đầu định hình việc sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ để nâng cao giá trị và tính cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp; Đưa một số kết quả nghiên cứu, sáng chế vào thực tiễn đời sống; Tạo động lực cho các địa phương tự huy động các nguồn lực để xây dựng và phát triển tài sản trí tuệ.
Báo cáo cũng khẳng định rằng, Chương trình còn có một số hạn chế nhất định như: chưa phát huy được hết tiềm năng, tầm quan trọng của mình; Tổng kinh phí được sử dụng trong 5 năm qua còn khiêm tốn; Số lượng các dự án đủ điều kiện để tuyển chọn chưa đáp ứng yêu cầu và kế hoạch đặt ra; Thủ tục thẩm định hồ sơ, đặc biệt là thẩm định dự toán kinh phí chậm, làm ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân hàng năm.
Tại Hội nghị, đại diện các Sở KH&CN, các cơ quan chuyên môn, các đơn vị chủ trì dự án đã phát biểu ý kiến tham luận về kinh nghiệm và những kết quả đạt được trong quá trình tham gia triển khai các nội dung Chương trình cũng như hiệu quả, ý nghĩa kinh tế xã hội mà Chương trình mang lại cho địa phương nơi triển khai dự án, đồng thời đề xuất một số hoạt động cần triển khai trong Chương trình giai đoạn 2011-2015.
Tỉnh Hải Dương cũng là tỉnh rất tích cực tham gia Chương trình 68, trong năm 2010 đã có 3 dự án được duyệt và thực hiện. Trong đó có 2 dự án của Trung ương quản lý và 1 dự án Trung ương ủy quyền cho địa phương quản lý.
2 dự án của Trung ương quản lý đó là:
- Dự án thứ nhất: Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý "Thanh Hà" cho sản phẩm vải thiều của tỉnh Hải Dương. Dự án này được thực hiện trong 2 năm 2010 và 2011.
- Dự án thứ hai: Xây dựng, quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể "Gạo nếp cái hoa vàng Kinh Môn: cho sản phẩm gạo nếp cái hoa vàng của huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương.
Dự án do Trung ương uỷ quyền cho địa phương quản lý: Tuyên truyền sở hữu trí tuệ trên Đài phát thanh và Truyền hình tỉnh Hải Dương đã hoàn thành và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt cho tiếp tục thực hiện trong năm 2011 trên Đài phát thanh và Truyền hình tỉnh Dải Dương.
Kết thúc hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Quân khẳng định: về cơ bản Chương trình đã đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ của giai đoạn 2005-2010 mà Thủ tướng Chính phủ giao theo Quyết định số 68/QĐ-TTg. Trong giai đoạn 2011-2015, Chương trình cần được mở rộng hơn nữa về phạm vi hoạt động và đối tượng hỗ trợ, trong đó, tập trung vào hoạt động khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu tài sản trí tuệ đặc biệt là sáng chế đã hết thời hạn bảo hộ và sáng chế không được bảo hộ ở Việt Nam phục vụ hoạt động nghiên cứu, triển khai, sản xuất và kinh doanh. Bên cạnh đó, cần tập trung nghiên cứu phương pháp luận và cơ chế chính sách phát triển hoạt động định giá tài sản trí tuệ. Cần có cơ chế phối hợp, lồng ghép hoạt động sở hữu trí tuệ với các chương trình quốc gia và hoạt động của các Bộ, ngành liên quan, đảm bảo phát huy ý nghĩa, giá trị của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ nhằm nâng cao giá trị, uy tín và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.