Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ; PHÁT HUY Ý CHÍ, KHÁT VỌNG, SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, ĐẨY MẠNH ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, HUY ĐỘNG MỌI NGUỒN LỰC CHO PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG; PHẤN ĐẤU ĐẾN NĂM 2025 LÀ TỈNH CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI, TẠO NỀN TẢNG ĐỂ HẢI DƯƠNG SỚM TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG”
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII

Phần thứ nhất

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XVI, NHIỆM KỲ 2015 - 2020

 Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XVI được triển khai thực hiện trong bối cảnh thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen, song thuận lợi vẫn là cơ bản. Trong nước, tình hình chính trị ổn định, Trung ương chỉ đạo triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp lớn về công tác xây dựng Đảng, cải cách hành chính, thiết lập trật tự, kỷ cương; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia... đã tác động tích cực, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của tỉnh giai đoạn 2015 - 2020. Cùng với cả nước, tỉnh ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về thời tiết, dịch bệnh, nguồn lực đầu tư và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đặc biệt, tình hình dịch bệnh tả lợn châu Phi và đại dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh  đã có tác động tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện một số chỉ tiêu phát triển của tỉnh, nhất là tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách nhà nước và việc thực hiện chỉ tiêu của cả nhiệm kỳ.

Phát huy tiềm năng, lợi thế, với sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, sự lãnh đạo, chỉ đạo năng động, sáng tạo, quyết liệt và sự nỗ lực, cố gắng, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã tích cực, chủ động vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế đạt mức tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hóa. Thu ngân sách và thu hút đầu tư đạt kết quả khá cao, từ năm 2017, tỉnh tự cân đối ngân sách và có một phần điều tiết về ngân sách Trung ương. Hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư, nhất là hệ thống giao thông thiết yếu và liên tỉnh. Xây dựng và phát triển đô thị, nông thôn mới đạt kết quả nổi bật. Văn hóa - xã hội phát triển toàn diện, thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa; giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt nhiều tiến bộ mới. Quốc phòng - an ninh được củng cố và giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có bước chuyển biến tích cực, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Đời sống, việc làm và thu nhập của nhân dân ngày càng được cải thiện. Hội nhập và hợp tác kinh tế đạt được những kết quả tích cực. Kết quả thực hiện đạt và vượt 16/20 chỉ tiêu Đại hội lần thứ XVI đề ra, cụ thể:
A. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
I. LĨNH VỰC KINH TẾ - XÃ HỘI, KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ, MÔI TRƯỜNG, QUỐC PHÒNG - AN NINH, THANH TRA, TƯ PHÁP, ĐỐI NGOẠI

1. Kinh tế tăng trưởng khá, chú trọng cơ cấu lại các ngành kinh tế, bước đầu đạt kết quả tích cực
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP (giá 2010) tăng bình quân 8,1%/năm  (mục tiêu từ 8 - 8,5%), cao hơn giai đoạn 2010 - 2015 (7,7%) và cao hơn mức bình quân chung của cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 69,8 triệu đồng, tương đương khoảng 3.020 USD (đứng thứ 19 trong toàn quốc). Quy mô kinh tế gấp 1,6 lần so với năm 2015 (đứng thứ 11 trong toàn quốc); tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế tăng từ 35,2% (giai đoạn 2011-2015) lên 47,1% (giai đoạn 2016-2020).
Tập trung thực hiện cơ cấu lại kinh tế, cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, trên cơ sở phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế và dịch vụ; năm 2020, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ chiếm 90,3% GRDP (đầu nhiệm kỳ chiếm 78%). Chỉ đạo và thực hiện quyết liệt những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, năng lực cạnh tranh đã đạt tiến bộ trên một số mặt, huy động được nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển , tỷ lệ huy động vốn đầu tư trên GRDP bình quân đạt 36,6%, (mục tiêu 32%). Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu đầu tư, nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước tăng từ 80,6% (năm 2015) lên 89,4% (năm 2020), đặc biệt từ khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng mạnh (từ 18,7% lên 29,4%) trong tổng vốn đầu tư xã hội, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Thực hiện chủ trương cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, giai đoạn 2016 - 2020 đã hoàn thành cổ phần hóa 03 doanh nghiệp và chuyển đổi 03 đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần. Sau cổ phần hóa, các doanh nghiệp hoạt động ổn định, một số doanh nghiệp đã đổi mới mô hình quản trị nội bộ, phát triển thị trường và có bước phát triển bền vững. 
1.1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng trưởng ổn định, chuyển mạnh sang mô hình tập trung; hoàn thành vượt mức mục tiêu xây dựng nông thôn mới
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng bình quân 2,3%/năm . Giá trị sản phẩm thu hoạch trên 01 ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản năm 2020 đạt 164 triệu đồng (tăng 31 triệu đồng so với năm 2015), vượt mục tiêu đề ra (150 triệu đồng/ha). Đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị chăn nuôi - thuỷ sản, giảm tỷ trọng giá trị trồng trọt - lâm nghiệp; sản xuất dần chuyển dịch sang mô hình tập trung gắn với liên kết theo chuỗi giá trị, ứng dụng tiến bộ mới trong sản xuất , cơ giới hóa ở hầu hết các khâu; công tác bảo quản, chế biến nông sản có bước phát triển tích cực. 
Duy trì ổn định diện tích 55.000 ha sản xuất lúa, năng suất, chất lượng được nâng lên, đảm bảo an ninh lương thực. Sản xuất rau màu được mở rộng về diện tích , chủng loại và thị trường tiêu thụ; diện tích cây ăn quả cơ bản ổn định , một số cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao  được phát triển, mở rộng. Chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản  có bước phát triển khá toàn diện, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, xa khu dân cư ; nhiều giống mới và mô hình sản xuất mới cho năng suất, chất lượng cao được đưa vào sản xuất.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã được các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung chỉ đạo thực hiện, các tầng lớp nhân dân nhiệt tình hưởng ứng; bộ mặt nông thôn thay đổi rõ rệt. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu ở xã được đầu tư xây dựng, nâng cấp khá đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất; thu nhập và đời sống của người dân khu vực nông thôn được nâng lên. Năm 2020, cơ bản 100% các địa phương trên địa bàn tỉnh đều hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới.
1.2. Công nghiệp, xây dựng duy trì mức tăng trưởng khá, bước đầu hình thành và phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15,4%/năm (giai đoạn 2011-2015: 13,7%/năm). Quy mô ngành công nghiệp năm 2020 gấp 2,0 lần năm 2015; cơ cấu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo . Một số sản phẩm, nhóm sản phẩm chủ lực sản xuất ổn định và tăng khá cao . Bước đầu hình thành và phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ. Đến nay, toàn tỉnh có 10 khu công nghiệp được đầu tư hạ tầng đồng bộ (tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt 81,6%); có 38 cụm công nghiệp được thành lập (tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt 68,6%), trong đó, 8 cụm công nghiệp có nhà đầu tư hạ tầng. Tiểu thủ công nghiệp, làng nghề  tiếp tục có bước phát triển về chiều sâu, sản phẩm khá đa dạng. Hoạt động khuyến công được đổi mới, nâng cao về hiệu quả. 
Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng 12,2%/năm (giai đoạn 2011-2015 tăng 9,5%/năm). Tiếp tục mở rộng quy mô và phát huy công suất các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng lớn ; khuyến khích đầu tư sản xuất các vật liệu xây dựng mới.
1.3. Ngành dịch vụ tiếp tục phát triển đa dạng, từng bước hình thành sản phẩm du lịch gắn với phát huy giá trị các di tích, danh thắng của tỉnh 
Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 6,0%/năm (giai đoạn 2011 - 2015: 7%/năm). Hoạt động xuất khẩu hàng hóa tăng khá, tổng giá trị đạt trên 31,6 tỷ USD, tăng bình quân 11,9%/năm. Thị trường hàng hóa và dịch vụ được kiểm soát; nhiều loại hình dịch vụ được khuyến khích thu hút đầu tư và phát triển đa dạng, một số loại hình dịch vụ chất lượng cao và tiện ích được hình thành; chất lượng nhân lực, dịch vụ… được cải thiện khá rõ . Ngành ngân hàng thực hiện tốt nhiệm vụ cung ứng vốn tín dụng và dịch vụ, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội , thực hiện có hiệu quả chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn thuận lợi, phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống.

Du lịch phát triển khởi sắc, kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch ngày càng được hoàn thiện, phát triển đồng bộ và hiện đại. Một số sản phẩm du lịch đặc thù của tỉnh được hình thành rõ nét ; một số tuyến du lịch liên tỉnh tiêu biểu đã được xây dựng và khai thác; số lượng khách du lịch tăng bình quân 8,4%/năm, doanh thu tăng bình quân 10,2%/năm.
1.4. Thu ngân sách vượt kế hoạch đề ra, tự cân đối thu chi và có phần điều tiết về Trung ương 
Công tác quản lý tài chính ngân sách được thực hiện tốt. Tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 đạt trên 83.375 tỷ đồng (tăng 13% so với dự toán), trong đó thu nội địa 63.826 tỷ đồng (đứng thứ 6 trong Vùng đồng bằng sông Hồng), tăng bình quân 11,6%/năm. Từ năm 2017, Hải Dương là một trong 16 tỉnh, thành phố tự cân đối thu chi và có một phần điều tiết về ngân sách Trung ương. Thực hiện các biện pháp chi ngân sách bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, đúng quy định. Công tác quản lý nhà nước về đầu tư được tăng cường, các quy định trong quản lý đầu tư được quan tâm hoàn thiện. Việc bố trí vốn đầu tư được ưu tiên cho đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế, phát triển các lĩnh vực có lợi thế, đầu tư phát triển sản phẩm công nghiệp có giá trị gia tăng cao và các lĩnh vực dịch vụ có lợi thế. 
1.5. Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, hiện đại
Ưu tiên nguồn lực và phối hợp với các tỉnh bạn đầu tư các công trình giao thông nhằm kết nối liên tỉnh. Hạ tầng thiết yếu khu vực nông thôn như: đường giao thông, công trình cấp nước sạch... được cải thiện rõ nét. Hạ tầng kỹ thuật ở các đô thị, nhất là thành phố Hải Dương, Chí Linh và thị xã Kinh Môn được đầu tư nâng cấp, tạo được nét khởi sắc mới. Hạ tầng kỹ thuật của các khu công nghiệp cơ bản được đầu tư hoàn thiện, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư. Các công trình, dự án trọng điểm được tập trung đầu tư tạo động lực mới cho phát triển, như:
(1) Đường trục Bắc - Nam tỉnh Hải Dương: Đã hoàn thành giai đoạn 1.
(2) Khu hành chính tập trung tỉnh Hải Dương : Hiện đã hoàn thành và đưa vào sử dụng hạng mục Trung tâm văn hóa xứ Đông và Quảng trường.
(3) Dự án phát triển khu du lịch, dịch vụ sinh thái và nghỉ dưỡng quy mô 300 ha tại khu vực di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, Dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật Khu văn hóa - thể thao tỉnh Hải Dương và Trung tâm huấn luyện bóng bàn đã được phê duyệt danh mục đầu tư, đang thu hút, lựa chọn nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, trong nhiệm kỳ đã đầu tư hoàn thành một số công trình giao thông quan trọng như: đường 62m kéo dài đến nút giao Cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường dẫn phía Bắc Cầu Hàn… Công tác quản lý, đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nông thôn được tăng cường. Hệ thống hạ tầng thiết yếu  được quan tâm đầu tư thực hiện, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.6. Các thành phần kinh tế được quan tâm phát triển, khu vực kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trở thành động lực chính
Các thành phần kinh tế được quan tâm, tạo môi trường bình đẳng để phát triển , trong đó: kinh tế ngoài nhà nước có bước phát triển mạnh mẽ, tăng bình quân 7,4%/năm (giai đoạn 2011-2015 tăng bình quân 1,9%/năm); kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân 12,0%/năm, tiếp tục đi đầu trong sản xuất sản phẩm công nghệ cao, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tổng vốn đầu tư FDI vào tỉnh trong nhiệm kỳ khoảng 4,3 tỷ USD  (đứng thứ 4 trong Vùng Đồng bằng sông Hồng và thứ 11 trong toàn quốc). 
Quan tâm khuyến khích thành lập mới doanh nghiệp và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, xúc tiến thương mại, dịch vụ lao động, pháp lý, bảo hộ sở hữu công nghiệp). Khu vực doanh nghiệp dân doanh có bước phát triển khá cả về số lượng, quy mô vốn sản xuất, trong nhiệm kỳ có 7.660 doanh nghiệp thành lập mới, tăng bình quân 10,2%/năm, vốn đăng ký tăng 21,8%/năm; hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, trình độ, kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp của đội ngũ doanh nhân được nâng lên.
1.7. Công tác quy hoạch, quản lý và thực hiện quy hoạch có nhiều chuyển biến tích cực; phát triển đô thị đạt kết quả nổi bật
Công tác lập, quản lý và thực hiện quy hoạch có bước tiến bộ; cơ bản phủ kín quy hoạch xây dựng cho khu vực đô thị và nông thôn, đảm bảo định hướng phát triển và kết nối đồng bộ. Tổ chức rà soát, điều chỉnh, lập một số quy hoạch các ngành, lĩnh vực, quy hoạch xây dựng vùng huyện, quy hoạch chung xây dựng thành phố, thị xã, thị trấn...
Công tác nâng cấp, phát triển đô thị đạt kết quả nổi bật, đã hình thành một số khu đô thị mới hiện đại, có thiết kế đồng bộ. Hoàn thành việc điều chỉnh địa giới hành chính và nâng cấp thành phố Hải Dương lên đô thị loại I, thị xã Chí Linh đạt đô thị loại III và trở thành thành phố, huyện Kinh Môn đạt đô thị loại IV và trở thành thị xã. Tỷ lệ đô thị hóa toàn tỉnh đạt 32,2% (mục tiêu 33 - 35%).
2. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều đổi mới
2.1. Giáo dục và đào tạo đạt kết quả khá toàn diện, chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên
Giáo dục và đào tạo có nhiều đổi mới. Mạng lưới, quy mô giáo dục  ngày càng phù hợp, đáp ứng nhu cầu học tập phong phú của nhân dân và xây dựng xã hội học tập ở địa phương. Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học được quan tâm, đầu tư theo hướng chuẩn hoá, hiện đại và đồng bộ, tỉ lệ phòng học kiên cố đạt 96,5% (tăng 5%); hạ tầng công nghệ thông tin được nâng cấp, cải thiện; tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 79,8%  (tăng 22,6%, cao hơn tỷ lệ chung toàn quốc). Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý được nâng cao; trật tự, kỷ cương trường học được giữ vững. Hải Dương luôn đi đầu cả nước về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; chất lượng giáo dục toàn diện có bước tiến bộ; nhiều tiêu chí về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non đạt cao, vượt trội so với toàn quốc ; thành tích học sinh giỏi quốc gia trong tốp đầu cả nước ; chú trọng nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, tin học, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, góp phần tích cực nâng cao số lượng, chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện đột phá chiến lược về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được tập trung chỉ đạo, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn 2016 - 2020”. Thực hiện rà soát, sắp xếp, tổ chức lại hệ thống các cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp, cơ cấu đào tạo ngành nghề các trường đại học, cao đẳng, trên địa bàn tỉnh ngày càng hợp lý, gắn liền với xu thế và nhu cầu lao động của xã hội, có tác động tích cực tới việc chuyển dịch cơ cấu lao động ; tỷ lệ lao động qua đào tạo được cấp chứng chỉ tăng từ 18,8% năm 2015 lên 24% năm 2020. Quan tâm thực hiện chính sách ưu đãi, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về công tác tại tỉnh với 789 trường hợp ; cử đi học tiến sĩ 10 người, thạc sĩ 249 người, 11 bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa II. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về thể chất, văn hóa tinh thần, trình độ học vấn và kỹ năng, lý tưởng sống; chỉ số phát triển con người (HDI) của tỉnh tăng từ 0,703 năm 2015 lên 0,741 năm 2020 (cao hơn bình quân chung cả nước).
2.2. Công tác y tế, dân số có nhiều tiến bộ; chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được cải thiện rõ nét
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; cơ sở vật chất, trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại phục vụ khám, chữa bệnh tiếp tục được đầu tư, áp dụng. Thực hiện có hiệu quả chủ trương giảm số lượng các đơn vị đầu mối sự nghiệp và chuyển đổi cơ chế tự chủ về kinh phí hoạt động của các cơ sở khám chữa bệnh công lập . Công tác y tế dự phòng, dân số và phát triển được triển khai có hiệu quả; thành lập các trung tâm y tế tuyến huyện đa chức năng theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối, phù hợp xu hướng chăm sóc sức khỏe ban đầu trong giai đoạn mới. Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm được chú trọng. Trước diễn biến của đại dịch Covid-19, các cấp ủy đảng, chính quyền đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp về tuyên truyền, giãn cách xã hội, sàng lọc bệnh nhân, xét nghiệm, điều trị để đảm bảo giảm thiểu lây nhiễm, khoanh vùng dập dịch… Với tinh thần vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh đã được kiểm soát tốt. 
Thực hiện đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh; nâng cao năng lực điều trị cho các tuyến; cơ hội tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao của người dân ngày càng thuận lợi; các chỉ tiêu về sức khoẻ không ngừng được tăng lên, nhiều chỉ số cao hơn so với mặt bằng chung của toàn quốc . Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 78,5% lên 90,5%; số bác sĩ/vạn dân từ 7,9 tăng lên 9,3; tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ làm việc từ 76,6% tăng lên 85,7%; số giường bệnh (không tính giường trạm y tế xã) trên 1 vạn dân từ 25,5 giường tăng lên 31,2 giường.
2.3. Văn hoá, thể thao phát triển khá toàn diện
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” tiếp tục phát triển, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng nếp sống văn minh, đời sống văn hóa lành mạnh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tỷ lệ các danh hiệu văn hóa hằng năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra . Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, quản lý lễ hội từng bước đi vào nền nếp. Hoạt động văn học nghệ thuật có bước phát triển, chất lượng được nâng lên. Công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa được chú trọng, có thêm 3 di tích, cụm di tích được công nhận di tích quốc gia đặc biệt , hết năm 2020 trên địa bàn tỉnh có 142 di tích cấp quốc gia, 08 bảo vật quốc gia, 04 di tích quốc gia đặc biệt. Các thiết chế văn hoá, thể dục thể thao ở cơ sở được quan tâm đầu tư xây dựng. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì rộng khắp và có bước phát triển, năm 2020 có trên 32% dân số tập thể thao thường xuyên; thể thao thành tích cao khẳng định được vị thế trong toàn quốc và khu vực . Công tác xã hội hoá hoạt động văn hoá, thể thao đạt một số kết quả tích cực. 
2.4. Thông tin và truyền thông phát triển mạnh mẽ
Quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thông tin và truyền thông được chú trọng. Hệ thống báo chí, truyền thông trên địa bàn tỉnh được quan tâm đầu tư, nâng cao chất lượng và có nhiều đổi mới. Hạ tầng và dịch vụ thông tin, truyền thông tiếp tục được hoàn thiện và ngày càng đồng bộ, hiện đại . Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan đảng, nhà nước; triển khai Khung Kiến trúc Chính quyền điện tử của tỉnh. Hệ thống Một cửa điện tử, dịch vụ công trực tuyến, quản lý văn bản, thư điện tử công vụ... được triển khai thống nhất và đồng bộ ở cả 3 cấp trong toàn tỉnh; đến nay, 10% số lượng dịch vụ công được cung cấp trực tuyến ở mức độ 4.
2.5. Lao động, việc làm và an sinh xã hội được quan tâm
Công tác lao động, việc làm, an sinh xã hội đạt được những kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm trung bình 1,17%/năm ; tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2020 ước đạt 75%. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản , tăng tỷ lệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng . Công tác quản lý nhà nước về lao động được tăng cường; việc tuyển sinh dạy nghề, tạo việc làm mới cho lao động hằng năm được thực hiện tốt ; đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng, số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng bình quân 8,4%/năm. Thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với người có công và đảm bảo an sinh xã hội. Các quyền của phụ nữ và trẻ em được bảo đảm. Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội, đặc biệt tệ nạn ma túy đạt kết quả tích cực. Việc triển khai hiệu quả các chính sách an sinh xã hội đã góp phần tạo ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, ước năm 2020 thu nhập bình quân đạt 4,39 triệu đồng/tháng (tăng 1,4 triệu với năm 2015); các chỉ tiêu cơ bản về thu nhập, chi tiêu, nhà ở và phương tiện sinh hoạt phục vụ đời sống người dân hằng năm đều tăng.
3. Lĩnh vực khoa học và công nghệ, quản lý tài nguyên và môi trường có nhiều tiến bộ
3.1. Khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển theo hướng thiết thực, hiệu quả
Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển theo hướng thiết thực, hiệu quả; tỉnh đã đầu tư 213,9 tỷ đồng từ ngân sách để thực hiện 140 nhiệm vụ, tập trung vào giải quyết những vấn đề cấp thiết trong sản xuất và đời sống, mang lại hiệu quả thiết thực. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ của tỉnh được tăng cường; hệ thống quản lý được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối. Hoạt động khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng xác định những luận cứ, cơ sở khoa học để đưa ra các quyết định lựa chọn, chấp thuận đầu tư các dự án, công trình phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của tỉnh gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn, trùng tu di sản văn hóa và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
3.2. Công tác quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên được tăng cường 
Công tác quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên được các cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện; đã tổ chức khai thác, quản lý có hiệu quả các loại tài nguyên trên địa bàn tỉnh; tăng cường kiểm tra, kịp thời phát hiện, xử lý nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm. Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngày càng đi vào nền nếp, góp phần tích cực vào việc sử dụng đất hợp lý và có hiệu quả. Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đã bám sát vào chỉ tiêu sử dụng đất, danh mục các dự án, công trình được phê duyệt, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, qua đó tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn đạt 78,4%, đất ở đô thị 73,2%, đất các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp 92%.
3.3. Công tác quản lý và bảo vệ môi trường được chú trọng
Cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác quản lý và bảo vệ môi trường. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng nguồn nước, không khí, đất đai được tăng cường; chú trọng công tác thẩm định, đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư. Công tác thanh tra, xử lý các vi phạm về môi trường được tiến hành thường xuyên và xử lý kiên quyết . Một số “điểm nóng” về môi trường, nhất là việc gây ô nhiễm do hoạt động của lò gạch thủ công đã được xử lý triệt để.
Công tác quản lý môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh được tăng cường; thực hiện tốt Đề án lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường tự động trên địa bàn tỉnh . Phong trào vệ sinh môi trường từ thôn, khu dân cư được đẩy mạnh, huy động được sự đóng góp tích cực của các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư; nhiều mô hình tự quản bảo vệ môi trường hoạt động có hiệu quả.  
4.  Quốc phòng, an ninh, thanh tra, tư pháp được bảo đảm
4.1. Công tác quốc phòng, quân sự địa phương tiếp tục được củng cố và tăng cường
Công tác quốc phòng - quân sự địa phương được triển khai đồng bộ, toàn diện, có chiều sâu. Đề án xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh giai đoạn 2016-2020 triển khai đạt kết quả tốt, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc. Thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng lực lượng thường trực, dân quân tự vệ, dự bị động viên; tích cực đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, qua đó chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang không ngừng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân ; công tác tuyển sinh quân sự hằng năm đạt kết quả cao; thực hiện tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh , công tác phòng, chống giảm nhẹ thiên tai và tìm kiếm cứu nạn. Bảo đảm đồng bộ công tác hậu cần, tài chính, vũ khí, trang bị cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, diễn tập và các nhiệm vụ đột xuất khác . Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị chăm lo chính sách hậu phương quân đội và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”.
4.2. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững
Cấp ủy, chính quyền các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã hội; chủ động, kịp thời phát hiện và đấu tranh, vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; đảm bảo vững chắc an ninh trên các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa tư tưởng, tôn giáo. Giải quyết kịp thời, ổn định các vụ việc phức tạp, tập trung đông người, không để phát sinh thành “điểm nóng” về an ninh, trật tự. Công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm đạt kết quả tích cực, chất lượng điều tra, khám phá các vụ án, nhất là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, dư luận quan tâm được nâng cao . Triển khai tổ chức thực hiện nhiều giải pháp trong công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Huy động các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trên địa bàn tỉnh tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và thực hiện Đề án “Xây dựng làng an toàn, khu dân cư an toàn, cơ quan, doanh nghiệp an toàn về an ninh trật tự”.
4.3. Chất lượng công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được nâng lên
Công tác thanh tra được triển khai thực hiện đúng quy định, giảm bớt tình trạng chồng chéo, chất lượng được nâng lên, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, góp phần phòng ngừa vi phạm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí . Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện tương đối đầy đủ, nghiêm túc; cơ bản các đơn thư được xem xét, giải quyết, nhiều vụ việc được giải quyết ngay từ cơ sở. Chất lượng giải quyết tố cáo, khiếu nại của công dân từng bước được nâng lên, đảm bảo đúng pháp luật . Các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, nhất là các vụ việc đông người, kéo dài ở một số địa phương được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, rà soát và xử lý dứt điểm.
4.4. Công tác tư pháp tiếp tục được đổi mới và tăng cường
Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Công tác phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý phát huy hiệu quả tích cực, từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Công tác theo dõi thi hành pháp luật được triển khai thực hiện đồng bộ; các hoạt động bổ trợ tư pháp được củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng. Việc phối hợp giữa các cơ quan tố tụng hai cấp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử được tăng cường ; chất lượng tranh tụng tại phiên tòa có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác thi hành án hình sự được thực hiện nghiêm minh; chất lượng thi hành án dân sự từng bước được nâng cao. Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nền nếp, có chất lượng, đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương; chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật ban hành theo thẩm quyền được nâng lên.
5. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng theo hướng thiết thực, hiệu quả 
Công tác tuyên truyền, phổ biến về đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, hội nhập quốc tế được tăng cường. Hoạt động đối ngoại của tỉnh được đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, ngày càng đi vào chiều sâu theo hướng nâng cao hiệu quả, thiết thực; tiếp tục duy trì tốt các mối quan hệ hợp tác và đã ký kết nhiều văn bản hợp tác với các tỉnh, thành phố trong nước  cũng như nước ngoài  nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, quảng bá, giới thiệu hình ảnh, sản phẩm và thu hút đầu tư về Hải Dương. Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động liên kết phát triển vùng được coi trọng, đạt nhiều kết quả tích cực, nhất là liên kết triển khai các dự án hạ tầng giao thông kết nối trong khu vực Vùng đồng bằng sông Hồng. 
Hoạt động đối ngoại nhân dân được đổi mới, có nhiều kết quả nổi bật, củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước có quan hệ hợp tác với tỉnh thông qua các hoạt động giao lưu, trao đổi văn hóa, giáo dục; qua đó, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội của tỉnh. 
II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
1. Công tác xây dựng Đảng được quan tâm lãnh đạo thực hiện

1.1. Thường xuyên làm tốt công tác chính trị, tư tưởng 
Việc nghiên cứu, quán triệt, triển khai, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng được thực hiện nghiêm túc, có đổi mới. Việc xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết được xác định trên cơ sở gắn với tình hình thực tiễn, chỉ rõ nội dung, đối tượng, nguồn lực và tiến độ thực hiện, đảm bảo tính khả thi. Kịp thời triển khai nghiên cứu, quán triệt, học tập và tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI. Công tác thông tin, tuyên truyền, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội được triển khai đa dạng, phong phú, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Công tác giáo dục lý luận chính trị và đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên được chú trọng thực hiện tốt; nội dung, chương trình từng bước được đổi mới; phương pháp giảng dạy, học tập được cải tiến, gắn lý luận với thực tiễn. 
Việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” dần đi vào chiều sâu, gắn với thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các quy định về nêu gương; trong đó đã lựa chọn 03 công việc trọng tâm, mang tính đột phá  để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Việc nêu gương, thực hiện nói đi đôi với làm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có chuyển biến tích cực. 
1.2. Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ, công tác xây dựng, củng cố tổ chức đảng và đảng viên có nhiều đổi mới
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng ở cơ sở; người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân... Xây dựng và thực hiện nghiêm chương trình, kế hoạch công tác; chỉ đạo các mặt công tác có trọng tâm, trọng điểm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Các cấp ủy tập trung rà soát, xây dựng và ban hành quy chế làm việc, quy định rõ chế độ làm việc, chức trách, thẩm quyền của tập thể và cá nhân; quán triệt và thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và điều hành, không buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện, làm thay công việc của chính quyền. Duy trì thường xuyên chế độ nghe và cho ý kiến chỉ đạo về nội dung của các kỳ họp hội đồng nhân dân cùng cấp; lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác của ủy ban nhân dân các cấp; tăng cường kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị. Thường trực cấp ủy duy trì giao ban với các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng, với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan khối nội chính; tăng cường kiểm tra, làm việc với các ngành, địa phương, kịp thời chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc, nhất là những công việc trọng tâm, các công trình trọng điểm. Công tác cải cách thủ tục hành chính trong Đảng được chú trọng và có chuyển biến tích cực; góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.
Công tác xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng được tăng cường; thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, xây dựng, phát triển tổ chức đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội trong khu vực kinh tế tư nhân . Cơ bản sắp xếp xong các chi bộ có đông đảng viên và thôn, khu dân cư có nhiều chi bộ ở xã, phường, thị trấn ; kiện toàn tổ chức bộ máy của tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở các xã, thị trấn mới sau sáp nhập.
Phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với giải quyết các tổ chức cơ sở đảng yếu kém được đẩy mạnh . Đội ngũ cán bộ, đảng viên được quan tâm nâng cao chất lượng; đẩy mạnh công tác kết nạp đảng viên . Công tác đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm được tiến hành nghiêm túc, đồng thời tăng cường công tác rà soát, sàng lọc đảng viên.
1.3. Công tác tổ chức, cán bộ đạt kết quả rõ nét
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy, thí điểm một số mô hình mới về tổ chức bộ máy theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII  và thực hiện tinh giản biên chế  theo Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị với quyết tâm chính trị cao và đạt được một số kết quả rõ nét. Triển khai thực hiện tốt việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã (giảm 30 đơn vị) và sắp xếp các thôn, khu dân cư theo quy định (giảm 135 thôn, khu dân cư).

Công tác cán bộ được quan tâm thực hiện đồng bộ, có sự đổi mới, đảm bảo nguyên tắc, đúng quy định, phát huy dân chủ. Công tác đánh giá cán bộ từng bước đi vào thực chất. Việc quy hoạch cán bộ cơ bản đáp ứng nhu cầu, đảm bảo cơ cấu và tính kế thừa. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của vị trí, chức danh được quy hoạch và vị trí việc làm. Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, điều động, luân chuyển cán bộ kịp thời, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng địa phương, cơ quan, đơn vị; quan tâm lựa chọn cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản, có triển vọng phát triển để luân chuyển làm cán bộ chủ chốt các sở, ban, ngành và các địa phương trong tỉnh. Chính sách đối với cán bộ được quan tâm thực hiện, trong đó có việc giải quyết chế độ cho các trường hợp không tái cử hoặc dôi dư do sắp xếp tổ chức bộ máy.
1.4. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường
Các cấp ủy, tổ chức đảng luôn chú trọng và tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát. Đã xây dựng và thực hiện nghiêm túc chương trình kiểm tra, giám sát đề ra; bổ sung nội dung kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW và các quy định về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên; đồng thời, thực hiện tốt các cuộc kiểm tra, giám sát theo sự chỉ đạo của cấp trên . Chỉ đạo kịp thời giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của tổ chức đảng và đảng viên đảm bảo đúng nguyên tắc, quy trình, quy định ; trong đó, tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở, hạn chế việc tố cáo, khiếu nại vượt cấp, kéo dài. Ủy ban kiểm tra các cấp đã chủ động thực hiện tốt công tác tham mưu, giúp cấp ủy và thực hiện đầy đủ, có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng; tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm và xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên có sai phạm.
Trong nhiệm kỳ, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 29 tổ chức đảng cấp dưới. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.014 đảng viên. Nhìn chung, việc thi hành kỷ luật Đảng đảm bảo nghiêm minh, kịp thời, có tính giáo dục và răn đe.
1.5. Công tác dân vận có nhiều đổi mới
Các cấp ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở, Quy chế tiếp xúc, đối thoại của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp với nhân dân; hướng các hoạt động, các phong trào công tác dân vận, nhất là “Dân vận khéo” về cơ sở, tập trung vào những vấn đề khó, vấn đề mới có liên quan thiết thực đến các tầng lớp nhân dân. Công tác dân vận chính quyền được quan tâm và có nhiều đổi mới gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của từng địa phương, cơ quan, đơn vị; dân chủ và thực hành dân chủ được nâng lên. Việc tiếp xúc, đối thoại của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở  đã đi vào nền nếp, giải quyết kịp thời những bức xúc, đề xuất, kiến nghị của nhân dân ngay từ cơ sở, có hiệu quả thiết thực, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Hệ thống dân vận các cấp đã phát huy vai trò tham mưu, giúp cấp uỷ thực hiện công tác dân vận, công tác tôn giáo và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tham mưu giúp cấp ủy lãnh đạo các mặt công tác của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình nhân dân để tham mưu giúp cấp ủy chỉ đạo, giải quyết kịp thời.
1.6. Công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt kết quả tích cực
Các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích cực quán triệt và triển khai thực hiện tương đối toàn diện, đồng bộ công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng; công tác tuyên truyền pháp luật được đẩy mạnh. Các cơ quan nội chính đã phối hợp chặt chẽ và phát huy tốt vai trò nòng cốt tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; xử lý, giải quyết các vấn đề nhạy cảm, các vụ việc khiếu kiện tập thể, mâu thuẫn phức tạp. Cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan nội chính trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai nhiều biện pháp nghiệp vụ; tăng cường phối hợp, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động ở tất cả các khâu, đảm bảo việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai. Các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh đã thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng, chống tham nhũng, thực hiện tốt việc kê khai tài sản thu nhập, chuyển đổi vị trí làm việc . Các vụ việc, vụ án tham nhũng đều được các cơ quan có thẩm quyền thụ lý, giải quyết nghiêm minh theo pháp luật . Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng p

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây