Bộ Khoa học và Công nghệ đang dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia theo hướng tập trung, thống nhất, đồng bộ và hội nhập quốc tế giai đoạn đến năm 2030, định hướng đến năm 2035” (Đề án).
Dự thảo nêu rõ, mục tiêu chung của Đề án là tạo nền tảng pháp lý và kỹ thuật để hình thành được hạ tầng chất lượng quốc gia theo hướng tập trung, thống nhất, đồng bộ các hoạt động về tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp, công nhận từ trung ương đến địa phương.
Hình thành và phát triển các tổ chức, mạng lưới chuyên gia của Việt Nam về tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp, công nhận đạt trình độ khu vực và quốc tế. Đổi mới và phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia theo hướng hiện đại, ứng dụng các nền tảng công nghệ số, các mô hình quản lý tiên tiến, nâng cấp hạ tầng thiết bị, công nghệ chuyên ngành đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và nâng cao năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư.
Mục tiêu đến năm 2030, hoàn thiện cơ bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia trong đó có Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý khác có liên quan; chỉ số Hạ tầng chất lượng quốc gia của Việt Nam đạt vị trí 45 trong bảng xếp hạng Chỉ số hạ tầng chất lượng toàn cầu.
Tỷ lệ hài hoà của hệ thống quốc gia với tiêu chuẩn, quy tắc thực hành, hướng dẫn, khuyến nghị (sau đây viết tắt là tiêu chuẩn) quốc tế và khu vực đạt tối thiểu 70%; cơ bản hoàn thiện toàn bộ hệ thống tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như chuyển đổi số, tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi năng lượng xanh, kinh tế tuần hoàn, quản lý xã hội, đô thị thông minh, sản xuất thông minh; tối thiểu 9000 tổ chức, doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn trong hệ thống chỉ tiêu về phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia...
Đến năm 2035, chỉ số Hạ tầng chất lượng quốc gia của Việt Nam đạt vị trí 40 trong bảng xếp hạng Chỉ số hạ tầng chất lượng toàn cầu. Tỷ lệ hài hoà của hệ thống tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực đạt tối thiểu 75%; tối thiểu 12000 tổ chức, doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn trong hệ thống chỉ tiêu về hạ tầng chất lượng quốc gia.
Mở rộng tối thiểu 05 lĩnh vực có khả năng đo và hiệu chuẩn được thừa nhận quốc tế; triển khai được ít nhất 30 chương trình so sánh vòng; phát triển tối thiểu thêm được 10 chuẩn đo lường quốc gia được cấp có thẩm quyền phê duyệt so với năm 2025.
Hình thành 10 - 20 tổ chức về tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp, công nhận được quốc tế thừa nhận; triển khai được ít nhất 40 chương trình thử nghiệm thành thạo/so sánh liên phòng; tối thiểu 2000 tổ chức đánh giá sự phù hợp (tổ chức chứng nhận, tổ chức thử nghiệm, tổ chức giám định) được công nhận trong các ngành lĩnh vực của nền kinh tế.
Đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn và chuẩn hoá tối thiểu 10000 chuyên gia, kỹ thuật viên về tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp, công nhận; tổ chức đào tạo bồi dưỡng, tập huấn tối thiểu từ 1-2 khoá hằng năm về nghiệp vụ phục vụ hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra chuyên ngành tiêu chuẩn đo lường chất lượng trong nước và 1-2 khoá tại nước ngoài. Hoàn thành hệ thống quản lý nhà nước trên nền tảng số ngành Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng trên phạm vi toàn quốc.
Để đạt được các mục tiêu trên, Đề án đặt ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu như hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, văn bản quản lý về phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia; tăng cường năng lực kỹ thuật của hạ tầng chất lượng quốc gia; chuyển đổi số trong hạ tầng chất lượng quốc gia; tăng cường hợp tác quốc tế; tập trung đẩy mạnh công tác truyền thông.
Nguồn: Tạp chí Chất lượng Việt Nam (vietq.vn)