Phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung, Trưởng phòng Quản lý khoa học và đào tạo, Viện Khảo cổ học Việt Nam luôn cảm thấy tự hào mỗi khi nhắc đến chuyến đi khảo sát cuối cùng đến quần đảo Trường Sa của viện, trong Chương trình nghiên cứu Trường Sa cấp Nhà nước vào tháng 5 và 6-1999 mà ông là thành viên và cũng là phụ trách chuyên môn khai quật. Ông khẳng định: "Người làm khoa học quyết bám biển dù Biển Đông có dậy sóng”.
Những hiện vật lưu dấu tích người Việt cổ
Năm 1993, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã giao cho Viện Khảo cổ học triển khai Chương trình khảo cổ học Trường Sa nhằm thu thập các chứng cứ khoa học phục vụ cho việc khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam. Chương trình khảo sát được chia thành nhiều đợt, bắt đầu từ năm1993-1994 đến 1999.
Phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung may mắn được là một trong những thành viên của đợt khai quật, khảo cổ lần cuối cùng trên quần đảo Trường Sa. Toàn bộ các đảo nổi ở Trường Sa được khảo sát và tiến hành khai quật.
Từ những chuyến đi này, các nhà khoa học đã thu được hàng trăm hiện vật, chủ yếu là đồ sành, đồ gốm sứ mang đặc trưng gốm sứ Việt Nam. Kết quả quan trọng nhất của các cuộc khảo sát trên là đã tìm được những bằng chứng khoa học hiển nhiên về hoạt động trên biển cả của người Việt trong lịch sử. Đây cũng là những tư liệu khách quan về dấu vết người Việt cổ trên quần đảo, góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.
Lần giở những tấm ảnh kỷ niệm lưu giữ được trong chuyến đi Trường Sa năm đó, phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung bồi hồi chia sẻ: “Được ra Trường Sa, nghiên cứu tìm hiểu về Trường Sa là một trong những kỷ niệm đẹp, là niềm tự hào nhất trong cuộc đời tôi. Đặt chân lên mảnh đất Trường Sa, tôi đã có cảm giác rất thiêng liêng, như đứng trên quê hương giữa đại dương mênh mông. Đặc biệt, khi đoàn khai quật được những mảnh gốm sứ Việt từ trong lòng đất Trường Sa, một cảm xúc khó tả dâng trào. Chúng tôi đã được gặp hồn cốt văn hóa Việt, được gặp ông bà, tổ tiên giữa trùng khơi. Phải chăng, qua những di vật gốm sứ nhỏ bé kia, cha ông ta muốn gửi lại thông điệp cho muôn đời sau: Hãy bảo vệ và gìn giữ lấy tầng trầm tích văn hóa Việt, tinh thần Việt trên mảnh đất này”.
Nhận thức được vị trí, và tầm quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lịch sử Việt Nam, đã từ lâu, các nhà khoa học Việt Nam đã vào cuộc. Năm 1993, Viện Khảo cổ học được giao thực hiện chương trình “Khảo cổ học Trường Sa, Tây Nguyên và Nam Bộ.” Ở mỗi khu vực, cần làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản của lịch sử đặt ra. Đối với chương trình Trường Sa, vấn đề lớn được đặt ra là có hay không dấu tích của người Việt cư trú trên quần đảo Trường Sa và dấu vết xa xưa nhất có niên đại từ bao giờ? Đối với giới sử học, đặc biệt là các nhà khảo cổ, đây cũng là cơ hội quý giá bởi lần đầu tiên các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử Trường Sa bằng phương pháp khoa học khảo cổ học.
Năm 1993-1994 khi khai quật đảo Trường Sa lớn, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều mảnh gốm thô mang đặc trưng đồ gốm Sa Huỳnh, một nền văn hóa thuộc thời đại đồ sắt phân bố vùng ven biển miền Trung Việt Nam, có niên đại cách đây trên dưới 2.000 năm. Quan trọng là các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu tích di chỉ cư trú chứa nhiều mảnh gốm thời Lê (thế kỷ XV-XVIII).
Tổng cộng, trong diện tích khai quật 70m2, các nhà khảo cổ đã thu được hơn 300 hiện vật, trong đó có gần 30 mảnh gốm thô, xốp, mỏng độ nung thấp, màu xám. Hơn 150 mảnh đồ đựng bằng sành và hơn 100 mảnh đồ sứ, trong đó chủ yếu là mảnh sứ hoa lam mang phong cách gốm vùng Xuân Giang (Hà Tĩnh) và Hợp Lễ (Hải Dương).
Đặc biệt tại đảo Nam Yết, qua khai quật diện tích 28m2, các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu tích bếp lửa cùng hơn 200 mảnh sành và sứ các loại bình, vò, bát, đĩa. Đáng chú ý, các nhà khảo cổ đã tìm thấy 3 mảnh sứ men ngọc của thời Trần thế kỷ XIII-XIV.
Ở đảo Song Tử Tây, các nhà khảo cổ tìm thấy 16 đồng tiền thời Nguyễn trong hố khai quật. Tại các đảo Sơn Ca, đảo Sinh Tồn, tại lớp đất khai quật đầu tiên, các nhà khoa học tìm được những di vật thời hiện đại như bật lửa zippo của Mỹ, những vỏ bia Tiger, vỏ đạn... Khi đào sâu xuống, họ dần gặp những thứ cổ hơn như những mảnh sành, mảnh sứ thời Nguyễn rồi đến thời Lê... Tất cả điều đó chứng minh rằng người Việt cổ đã đặt chân lên quần đảo Trường Sa ít nhất gần 2.000 năm về trước. Từ thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) và liên tục từ đó về sau, tần suất người Việt qua lại, cư trú trên quần đảo Trường Sa ngày một tăng, tạo một tầng trầm tích văn hóa Việt trong lòng quần đảo Trường Sa.
Bên cạnh đó, để có thể vượt trùng khơi ra biển xa, hẳn con người lúc ấy phải có kỹ thuật và kiến thức đi biển rất giỏi. Họ đã biết đóng những con thuyền lớn, biết lợi dụng gió mùa và dòng hải lưu. Ngay từ thời văn hóa Đông Sơn có niên đại cách đây trên 2.000 năm, những trống đồng Đông Sơn đã khắc họa những con thuyền đi trên sông, trên biển lớn chở được rất nhiều người và đồ vật.
Sẵn sàng vì biển đảo quê hương
Nhớ lại những tháng ngày được cống hiến công sức và trí tuệ của mình cho biển đảo quê hương, phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung chia sẻ, trước mỗi đợt huy động nhân lực đi khảo sát nghiên cứu khảo cổ học ở quần đảo Trường Sa, ở Viện khảo cổ học ai cũng háo hức xung phong được ra đảo, kể cả những người sức khỏe yếu. Nhưng do yêu cầu nghiêm ngặt của công việc nên số người tham gia cũng có hạn định. Qua các đợt khảo sát chỉ có 16 lượt cán bộ được tham gia. Những ngày công tác trên biển đảo, mọi người đều nỗ lực hết mình, vượt gian khó để hoàn thành nhiệm vụ.
Phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung tâm sự: "Những ai ra Trường Sa khi về đều có cảm nhận, những gì gắn với Trường Sa sẽ đi theo suốt cuộc đời. Có lẽ, sức sống mãnh liệt của trầm tích văn hóa Việt ở Trường Sa vẫn luôn là nguồn năng lượng tiềm tàng trong tâm khảm của mỗi người trong chúng tôi, giúp chúng tôi luôn vững vàng trong cuộc sống".
Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Chính phủ cùng tinh thần đoàn kết của nhân dân cả nước, Phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung cho rằng, không chỉ ông mà bất cứ nhà khoa học nào trên đất nước cũng sẵn sàng vì quê hương, quyết tâm bám biển, bám đảo nghiên cứu, khảo sát nhằm tìm ra những bằng chứng xác thực nhất khẳng định chủ quyền biển đảo quê hương, đồng thời góp phần giữ vững chủ quyền biển đảo của Tổ quốc cho dù Biển Đông có dậy sóng.
Những hiện vật lưu dấu tích người Việt cổ
Năm 1993, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã giao cho Viện Khảo cổ học triển khai Chương trình khảo cổ học Trường Sa nhằm thu thập các chứng cứ khoa học phục vụ cho việc khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam. Chương trình khảo sát được chia thành nhiều đợt, bắt đầu từ năm1993-1994 đến 1999.
Phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung may mắn được là một trong những thành viên của đợt khai quật, khảo cổ lần cuối cùng trên quần đảo Trường Sa. Toàn bộ các đảo nổi ở Trường Sa được khảo sát và tiến hành khai quật.
Từ những chuyến đi này, các nhà khoa học đã thu được hàng trăm hiện vật, chủ yếu là đồ sành, đồ gốm sứ mang đặc trưng gốm sứ Việt Nam. Kết quả quan trọng nhất của các cuộc khảo sát trên là đã tìm được những bằng chứng khoa học hiển nhiên về hoạt động trên biển cả của người Việt trong lịch sử. Đây cũng là những tư liệu khách quan về dấu vết người Việt cổ trên quần đảo, góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.
Lần giở những tấm ảnh kỷ niệm lưu giữ được trong chuyến đi Trường Sa năm đó, phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung bồi hồi chia sẻ: “Được ra Trường Sa, nghiên cứu tìm hiểu về Trường Sa là một trong những kỷ niệm đẹp, là niềm tự hào nhất trong cuộc đời tôi. Đặt chân lên mảnh đất Trường Sa, tôi đã có cảm giác rất thiêng liêng, như đứng trên quê hương giữa đại dương mênh mông. Đặc biệt, khi đoàn khai quật được những mảnh gốm sứ Việt từ trong lòng đất Trường Sa, một cảm xúc khó tả dâng trào. Chúng tôi đã được gặp hồn cốt văn hóa Việt, được gặp ông bà, tổ tiên giữa trùng khơi. Phải chăng, qua những di vật gốm sứ nhỏ bé kia, cha ông ta muốn gửi lại thông điệp cho muôn đời sau: Hãy bảo vệ và gìn giữ lấy tầng trầm tích văn hóa Việt, tinh thần Việt trên mảnh đất này”.
Nhận thức được vị trí, và tầm quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong lịch sử Việt Nam, đã từ lâu, các nhà khoa học Việt Nam đã vào cuộc. Năm 1993, Viện Khảo cổ học được giao thực hiện chương trình “Khảo cổ học Trường Sa, Tây Nguyên và Nam Bộ.” Ở mỗi khu vực, cần làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản của lịch sử đặt ra. Đối với chương trình Trường Sa, vấn đề lớn được đặt ra là có hay không dấu tích của người Việt cư trú trên quần đảo Trường Sa và dấu vết xa xưa nhất có niên đại từ bao giờ? Đối với giới sử học, đặc biệt là các nhà khảo cổ, đây cũng là cơ hội quý giá bởi lần đầu tiên các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử Trường Sa bằng phương pháp khoa học khảo cổ học.
Năm 1993-1994 khi khai quật đảo Trường Sa lớn, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều mảnh gốm thô mang đặc trưng đồ gốm Sa Huỳnh, một nền văn hóa thuộc thời đại đồ sắt phân bố vùng ven biển miền Trung Việt Nam, có niên đại cách đây trên dưới 2.000 năm. Quan trọng là các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu tích di chỉ cư trú chứa nhiều mảnh gốm thời Lê (thế kỷ XV-XVIII).
Tổng cộng, trong diện tích khai quật 70m2, các nhà khảo cổ đã thu được hơn 300 hiện vật, trong đó có gần 30 mảnh gốm thô, xốp, mỏng độ nung thấp, màu xám. Hơn 150 mảnh đồ đựng bằng sành và hơn 100 mảnh đồ sứ, trong đó chủ yếu là mảnh sứ hoa lam mang phong cách gốm vùng Xuân Giang (Hà Tĩnh) và Hợp Lễ (Hải Dương).
Đặc biệt tại đảo Nam Yết, qua khai quật diện tích 28m2, các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu tích bếp lửa cùng hơn 200 mảnh sành và sứ các loại bình, vò, bát, đĩa. Đáng chú ý, các nhà khảo cổ đã tìm thấy 3 mảnh sứ men ngọc của thời Trần thế kỷ XIII-XIV.
Ở đảo Song Tử Tây, các nhà khảo cổ tìm thấy 16 đồng tiền thời Nguyễn trong hố khai quật. Tại các đảo Sơn Ca, đảo Sinh Tồn, tại lớp đất khai quật đầu tiên, các nhà khoa học tìm được những di vật thời hiện đại như bật lửa zippo của Mỹ, những vỏ bia Tiger, vỏ đạn... Khi đào sâu xuống, họ dần gặp những thứ cổ hơn như những mảnh sành, mảnh sứ thời Nguyễn rồi đến thời Lê... Tất cả điều đó chứng minh rằng người Việt cổ đã đặt chân lên quần đảo Trường Sa ít nhất gần 2.000 năm về trước. Từ thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) và liên tục từ đó về sau, tần suất người Việt qua lại, cư trú trên quần đảo Trường Sa ngày một tăng, tạo một tầng trầm tích văn hóa Việt trong lòng quần đảo Trường Sa.
Bên cạnh đó, để có thể vượt trùng khơi ra biển xa, hẳn con người lúc ấy phải có kỹ thuật và kiến thức đi biển rất giỏi. Họ đã biết đóng những con thuyền lớn, biết lợi dụng gió mùa và dòng hải lưu. Ngay từ thời văn hóa Đông Sơn có niên đại cách đây trên 2.000 năm, những trống đồng Đông Sơn đã khắc họa những con thuyền đi trên sông, trên biển lớn chở được rất nhiều người và đồ vật.
Sẵn sàng vì biển đảo quê hương
Nhớ lại những tháng ngày được cống hiến công sức và trí tuệ của mình cho biển đảo quê hương, phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung chia sẻ, trước mỗi đợt huy động nhân lực đi khảo sát nghiên cứu khảo cổ học ở quần đảo Trường Sa, ở Viện khảo cổ học ai cũng háo hức xung phong được ra đảo, kể cả những người sức khỏe yếu. Nhưng do yêu cầu nghiêm ngặt của công việc nên số người tham gia cũng có hạn định. Qua các đợt khảo sát chỉ có 16 lượt cán bộ được tham gia. Những ngày công tác trên biển đảo, mọi người đều nỗ lực hết mình, vượt gian khó để hoàn thành nhiệm vụ.
Phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung tâm sự: "Những ai ra Trường Sa khi về đều có cảm nhận, những gì gắn với Trường Sa sẽ đi theo suốt cuộc đời. Có lẽ, sức sống mãnh liệt của trầm tích văn hóa Việt ở Trường Sa vẫn luôn là nguồn năng lượng tiềm tàng trong tâm khảm của mỗi người trong chúng tôi, giúp chúng tôi luôn vững vàng trong cuộc sống".
Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Chính phủ cùng tinh thần đoàn kết của nhân dân cả nước, Phó giáo sư-tiến sĩ Trình Năng Chung cho rằng, không chỉ ông mà bất cứ nhà khoa học nào trên đất nước cũng sẵn sàng vì quê hương, quyết tâm bám biển, bám đảo nghiên cứu, khảo sát nhằm tìm ra những bằng chứng xác thực nhất khẳng định chủ quyền biển đảo quê hương, đồng thời góp phần giữ vững chủ quyền biển đảo của Tổ quốc cho dù Biển Đông có dậy sóng.
TTXVN