Chùa Hào Xá (hay còn gọi là Bạch Hòa Tự) cách thành phốHải Dươnggần 20 km, thuộc thôn Hào Xá, xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà (Hải Dương). Thời xưa, làng Hào Xá có tên là trang Hạ Hào, thời Hậu Lê đổi thành Hào Xá, thuộc xã Hương Đại, huyện Thanh Hà, phủ Nam Sách.
Từ năm 1956, Hào Xá là một thôn của xã Thanh Xá (Thanh Hà). Theo thuyết phong thuỷ, thế đất của làng như hình con chim phượng hoàng xoè cánh, ngôi chùa tọa lạc trên đầu chim có chùm lông màu trắng nên có tên chữ là Bạch Hào tự, gọi nôm na là chùa Hào. Theo văn bia cổ, chùa Hào được xây dựng năm 1011, dưới thời vua Lý Thái Tổ, vị vua sáng lập triều nhà Lý. Lúc đầu, chùa xây cất đơn sơ bằng tre gỗ, đến khi vua Trần Nhân Tông xuất gia đầu Phật về thăm và cho xây dựng lại chùa. Vì vậy, cùng với thờ Phật, chùa Hào Xá còn thờ Trần Nhân Tông, vị Đệ nhất Tổ thiền phái Trúc Lâm và 3 vị cư sĩ người làng là Nguyễn Danh Quang, Nguyễn Danh Nguyên và Lý Đình Khuê. Bên cạnh chùa còn ba ngai thờ 3 vị thành hoàng bằng đá xanh ở cạnh chùa, vốn là miếu thành hoàng xưa. Ngoài ra, làng còn có đình Đụn, là đình duy nhất còn lại trong 3 ngôi đình vốn có từ xưa.
Chùa Hào Xá được mở rộng vào thời Trần. Đến năm 1540, dưới triều vua Mạc Đăng Dung, có vị Tăng phó là Trần Như Thừa cùng dân làng công đức tiền của để trùng tu chùa với quy mô 60 gian theo kiến trúc nội công ngoại quốc. Qua các thời Hậu Lê và Nguyễn, chùa đều được trùng tu. Cuối thế kỷ XIX, nghĩa quân Bãi Sậy lấy chùa Hào làm cơ sở trú quân. Đây cũng là nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của xã Bình Hà, là cơ sở hoạt động của cán bộ một số xã lân cận và nhiều chiến sĩ cách mạng. Sư ông trụ trì chùa là Ngô Văn Nhẫn được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam, là một trong những đảng viên đầu tiên của làng Hào. Trong Cách mạng Tháng 8/1945, chùa Hào chứng kiến lễ ra mắt của Mặt trận Việt Minh huyện Thanh Hà. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa Hào là nơi đứng chân của một số cơ quan huyện, nơi đặt trạm giao liên giữa huyện với khu Hà Đông và thực hiện tiêu thổ kháng chiến với tháp chuông phải dỡ bỏ. Chùa Hào còn là nơi trụ trì hàng chục năm của Hoà thượng Thích Gia Huệ, một nhà tu hành có uy tín, từ năm 1954 cho đến khi hoà thượng viên tịch... Song do thời gian, chiến tranh và thiên tai tàn phá, đến nay chùa Hào còn lại 5 gian tiền đường, 2 gian thượng điện, 3 gian nhà tổ và một số công trình phụ trợ. Trong nhà tổ có tượng Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông tạc bằng gỗ đặt trong khám thờ, bài vị của ba vị thành hoàng và các vị sư đã tu tại chùa. Năm 1991 và năm 2004, tháp chuông và ngôi tam bảo của chùa lần lượt được xây dựng khang trang. Ngoài ra, chùa Hào còn lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị về lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, như 10 tấm bia đá, hàng chục bản khắc gỗ kinh Phật có giá trị cao về tư liệu và nghệ thuật điêu khắc gỗ, vườn tháp, đồ thờ tự... Đặc biệt hiện vật bệ đá hoa sen với những hoa văn hình rồng, cánh sen, 4 góc có hình chim thần Garuda đội tòa sen phía trên được chạm khắc tinh xảo là một cổ vật quý hiếm đặc trưng của văn hóa thời Trần có sự ảnh hưởng của văn hóa Chăm.
Trước đây, lễ hội chùa Hào Xá mở từ ngày 4 đến ngày 6 tháng Giêng âm lịch, là ngày Trần Nhân Tông về thăm chùa. Đây là một trong số ít lễ hội truyền thống mùa xuân sớm nhất trên địa bàn tỉnh. Nét đặc sắc của lễ hội chùa Hào Xá là gắn lễ Phật với tưởng niệm Phật hoàng Trần Nhân Tông và ba vị thành hoàng như thần tích đã ghi. Trong phần lễ có rước sắc phong đặt trong kiệu long đình. Các dòng họ trong làng cũng đem kiệu của dòng họ mình ra rước sắc phong. Sáng sớm ngày mồng 4, các sắc phong được chuyển vào các kiệu long đình, rước từ chùa Hào ra đình Đụn để tổ chức tế lễ. Mồng 5 rước các sắc phong trở lại chùa, tiếp tục tế lễ. Tham gia đội tế có 16 người là nam giới phân bổ theo các giáp. Các tuần tế gồm dâng hương hoa và lễ tạ, với quan niệm nhà chùa chỉ dùng đồ chay tịnh. Lễ vật dâng cúng cũng là cỗ chay gồm xôi oản, ngũ quả, các sản phẩm nông nghiệp của địa phương, do các giáp cử người làm. Lệ này đến nay vẫn còn song có cải tiến, lễ chay do ban quản lý di tích, ban tổ chức lễ hội phối hợp với nhà chùa chủ trì, các xóm thi làm cỗ chấm giải để cúng Phật và thành hoàng. Chỉ có lễ vật cúng Hà bá khi tổ chức thi bơi thuyền mới có thêm thủ lợn. Mâm lễ đặt trên bệ đá thờ Hà bá. Nhà sư trụ trì và đại diện các giáp tiến hành làm lễ. Sang ngày mồng 6, làng rước các sắc phong ra miếu thờ ba vị thành hoàng để tế lễ và tổ chức diễn xướng trước khi kết thúc ba ngày lễ hội. Những người tham gia diễn xướng mặc trang phục binh sỹ thời xưa, vác 8 bát bửu, 8 xà mâu đi liền sau kiệu long đình, múa xà mâu theo các thế võ, diễn lại sự tích ba vị cư sĩ tả xung hữu đột, chỉ huy quân sĩ đánh giặc Nguyên Mông. Trong phần hội, ngoài các trò chơi dân gian như lễ hội làng ở nhiều nơi, lễ hội chùa Hào còn có thi bơi thuyền. Tương truyền, thi bơi chải trong lễ hội chùa Hào có từ thời Trần, ngay sau khi ba vị Nguyễn Danh Quang, Nguyễn Danh Nguyên và Lý Đình Khuê qua đời. Môn thi này không chỉ gợi lại hình ảnh hào hùng của chiến thắng trên sông Bạch Đằng đánh bại giặc Nguyên Mông của quân dân thời Trần, tái hiện công lao của thành hoàng dạy dân luyện tập bơi thuyền, mà còn thể hiện tinh thần thượng võ của người dân sống trong vùng sông nước. Xưa kia, làng Hào Xá có ba giáp Nam, Đông, Đoài, mỗi giáp có một đội bơi thuyền riêng, vì vậy thể thức bơi ở đây có ba chải (ba thuyền). Thuyền của mỗi giáp có 18 hoặc 20 tay chèo. Mỗi thuyền có 6 cặp bơi chèo, 1 người tát nước, 1 người lái thuyền và 1 người chỉ huy đánh phách hiệu lệnh. Điểm xuất phát và đích đều nằm trong đoạn sông Cửa Chùa. Phần hội chùa Hào còn có các trò chơi hấp dẫn như móc trạch và bắt vịt độc đáo. Trò chơi bắt vịt ở đây cũng có nét riêng. Khi vịt được thả ra, thanh niên trai tráng các giáp lao xuống nước ra sức bơi đuổi bắt, khi bắt được vịt rồi, vẫn phải lặn dưới nước và dùng tay moi mề vịt ra, sau đó ngậm mề vào miệng mới được nổi lên. Ai làm được như vậy sẽ giật giải.
Trò thi nấu cơm trên thuyền cũng là nét hấp dẫn của hội chùa Hào. Mỗi giáp một thuyền, người thi ngồi trên thuyền bắc bếp nấu cơm bằng củi. Trong khi thi nấu cơm, người trên thuyền vừa lo giữ lửa nấu cơm và giữ cho nồi cơm của giáp mình an toàn, vừa phải ngăn cản việc nấu cơm của giáp khác bằng cách té nước sang thuyền bạn, tuy nhiên, để tránh làm tắt bếp, lệ quy định người té nước không được té thẳng vào bếp của đội bạn. Kết quả, giáp nào không để bếp bị đổ và nấu chín cơm trước, cơm ngon hơn sẽ thắng.
Ngày nay lễ hội diễn ra từ ngày 5 đến ngày 6 tháng Giêng, Phần lễ vẫn duy trì lễ rước sắc phong, dâng hương tại chùa và nhà tổ. Cả xã Thanh Xá có 6 dòng họ thì sáng mùng 5 cả 6 dòng họ đều tổ chức đoàn rước kiệu bài vị dòng họ và mâm ngũ quả ra cùng đoàn rước đại diện các thôn đình Đụn, đồng thời nhà chùa cũng tổ chức một đoàn rước từ chùa Hào Xá ra đình Đụn đón đoàn các thôn và các dòng họ. Sau khi tổ chức dâng hương tại đình, tất cả tập hợp thành một đoàn rước lớn về chùa làm lễ khai hội. Sau khi khai hội, đoàn rước lại đi một vòng quanh chùa và miếu thành hoàng. Làng rước các sắc phong ra miếu thờ ba vị thành hoàng để tế lễ theo nghi thức cổ truyền. Năm nào hội to, nhà chùa còn tổ chức nghi lễ cúng Mông sơn vào buổi tối và đốt cây bông.Phần hội đang dần phục dựng các trò vui như bơi chải, bắt vịt, nấu cơm thi, bịt mắt đập niêu, đi cầu thùm, kéo co, múa rối nước, cờ biển. Các buổi tối có biểu diễn nghệ thuật do đội văn nghệ của xã, thôn tự biên tự diễn.
Chùa Hào Xá là một trong những di tích tiêu biểu trên địa bàn huyện Thanh Hà còn bảo lưu được những di sản quý giá về vật thể cũng như phi vật thể như hệ thống tượng thờ, các di vật, hiện vật khác cùng với những nét đẹp trong lễ hội như lễ tế, rước có sự tham gia của các dòng họ, tục bày các mâm ngũ quả rất đặc sắc thể hiện bàn tay khéo léo của các nghệ nhân dân gian, các trò vui như đua thuyền, múa rối nước, nấu cơm thi, bắt vịt... đãthu hút đông đảo du khách trong, ngoài tỉnh và trở thành một lễ hội có quy mô lớn trong vùng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh, làm phong phú, sinh động đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân địa phương. Với những giá trị di sản quý giá còn bảo lưu được, chùa Hào Xá đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 1993 và năm 2015, lễ hội truyền thống chùa Hào Xá lại được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.
Bài của Văn Đạt
Đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hải Dương số 1/2016
Đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ Hải Dương số 1/2016