Nhiều kỹ thuật y học Việt Nam ngang tầm thế giới

Nước ta có nhiều chuyên gia y tế, bác sĩ giỏi đứng ngang hàng với đồng nghiệp ở các nước tiên tiến, có khả năng làm chủ các kỹ thuật cao ngang tầm thế giới. Trong đó, có nhiều chuyên ngành, lĩnh vực y khoa, do chính các bác sĩ Việt Nam làm thầy, chuyển giao kỹ thuật cho bác sĩ của các nước.
Nhiều kỹ thuật y học Việt Nam ngang tầm thế giới
Những năm qua, ngành y tế đã luôn quan tâm đầu tư, phát triển mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận và ứng dụng thành tựu về khoa học và công nghệ hiện đại, từng bước đưa nền y học nước ta đạt trình độ cao trong khu vực và thế giới. Trong nhiều lĩnh vực, y học Việt Nam khẳng định được vị thế của mình như: ghép tạng, can thiệp tim mạch, ung bướu, nội soi phẫu thuật, can thiệp chấn thương chỉnh hình, ứng dụng tế bào gốc, hỗ trợ sinh sản, nhãn khoa... Việc định hướng, phát triển và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh được ngành y tế xác định theo hướng: công bằng, hiệu quả, phát triển; kết hợp phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh phổ cập với phát triển kỹ thuật cao, y tế chuyên sâu; bảo đảm mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của nhân dân về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Trên cơ sở đó, lựa chọn các thành tựu, thế mạnh về mũi nhọn y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao trong khám, chữa bệnh của mỗi bệnh viện, mỗi chuyên khoa để đầu tư thêm một bước, nhằm thực hiện được các kỹ thuật khó, chuyên khoa sâu các đơn vị đã lựa chọn, xây dựng trong thời gian ngắn nhất. Theo đó, tập trung vào các lĩnh vực phẫu thuật mở, phẫu thuật nội soi, robot phẫu thuật, nội soi can thiệp, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm cao cấp đối với các chuyên khoa: tim mạch, tiêu hóa, tiết niệu, ung thư, chấn thương chỉnh hình, ghép tạng, hồi sức cấp cứu...

 

Ghép tạng là thành tựu nổi bật của y học thế kỷ 20, nó là kết quả tổng hợp của các chuyên ngành nội, ngoại, gây mê hồi sức, xét nghiệm, miễn dịch, dược... Ghép tạng là đích đến cuối cùng để mang lại cơ hội sống cho những người suy tạng giai đoạn cuối, cần phải thay tạng bị bệnh bằng một tạng, hoặc một phần tạng khỏe mạnh để duy trì sự sống. Kỹ thuật ghép tạng ngày nay đã đạt trình độ rất cao cả về kỹ thuật cũng như theo dõi tạng ghép sau mổ. Và thành công nổi bật của các thầy thuốc Việt Nam những năm gần đây cũng là về kỹ thuật ghép mô tạng, từ ghép tim, gan đến ghép tế bào gốc tạo máu, ghép giác mạc. Tính từ ca ghép tạng (ghép thận) đầu tiên thực hiện năm 1992 đến nay đã thực hiện được 620 ca ghép thận, 24 ca ghép gan, bảy ca ghép tim và phần lớn số người được ghép tạng đều có cuộc sống bình thường. Ðáng chú ý, đến nay cả nước có 12 bệnh viện có khả năng thực hiện kỹ thuật ghép thận; năm bệnh viện có khả năng thực hiện kỹ thuật ghép gan và ba bệnh viện có khả năng ghép tim. Hiện tại, Bệnh viện Hữu nghị Việt Ðức đã hoàn thành các quy trình chẩn đoán chết não, hồi sức người bệnh chết não; quy trình lấy đa tạng từ người bệnh chết não; quy trình gây mê, phẫu thuật ghép gan, tim, thận từ người cho sống và chết não, điều trị chống thải ghép.

 

Trong lĩnh vực huyết học cũng có những thành công đáng kể. Tháng 7-1995, ca ghép tế bào gốc tủy xương đầu tiên cho người bị bệnh máu được thực hiện thành công, đến nay riêng Viện Huyết học TP Hồ Chí Minh đã ghép hơn 100 ca. Ngoài ra, đến nay các thầy thuốc chuyên ngành này đều thực hiện được các phác đồ chẩn đoán và điều trị tốt, hiện đại, cập nhật với trình độ quốc tế của hầu hết các nhóm bệnh lý chuyên khoa huyết học, như: Ðau tủy xương, Ulympho ác tính, Suy tủy xương, Lơ-xê-mi, Hội chứng rối loạn sinh tủy, Hemophilia... Cũng như áp dụng được nhiều phương pháp điều trị hiện đại nhất của thế giới, như: điều trị nhắm đích, điều trị đông máu rải rác trong lòng mạch, ghép tế bào gốc đồng loại, diệt tủy tối thiểu bằng tế bào gốc lấy từ máu ngoại vi... Với kết quả đó, nhiều người bệnh đã và đang điều trị ở nước ngoài quay về trong nước điều trị ở viện. Một số người bệnh là người nước ngoài cũng sang Việt Nam để điều trị bệnh máu.

Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) được ứng dụng và phát triển ở nước ta hơn 15 năm qua với hơn 10 nghìn trẻ ra đời từ phương pháp này. Hiện nay, Việt Nam là nơi thực hiện TTTON nhiều nhất khu vực Ðông - Nam Á với tỷ lệ thành công cao và thực hiện được hầu hết các kỹ thuật điều trị trên thế giới. Tỷ lệ thành công của kỹ thuật này ở một số trung tâm lớn của Việt Nam đạt tới gần 50%, là con số mơ ước của không ít trung tâm làm thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. Chính vì vậy, rất nhiều người sống ở nước ngoài biết đến kỹ thuật TTTON ở Việt Nam.

Trong lĩnh vực Nhi khoa, các thầy thuốc Việt Nam cũng gây được tiếng vang lớn, nhất là trong nội soi nhi khoa, khi mà GS Nguyễn Thanh Liêm (Bệnh viện Nhi T.Ư) nghiên cứu đề xuất bảy kỹ thuật mổ hoàn toàn mới mà trên thế giới chưa ai thực hiện. Với cụm công trình phẫu thuật nội soi này, GS Liêm đã được các đồng nghiệp quốc tế đánh giá rất cao. Ngoài các học trò ở trong nước, nhiều bác sĩ từ I-ta-li-a, Ðài Loan (Trung Quốc), Ma-lai-xi-a... đến Việt Nam xin ông hướng dẫn. Ông cũng được mời đi giảng bài tại nhiều trường đại học danh tiếng ở Mỹ, Nhật Bản, I-ta-li-a, Ô-xtrây-li-a, ở nhiều hội nghị quốc tế; được mời viết sách giáo khoa về phẫu thuật nhi xuất bản tại Anh và Mỹ... Kỹ thuật phẫu thuật teo trực tràng nội soi qua đường hậu môn được cho là một trong các kỹ thuật khó, nhiều trung tâm phẫu thuật lớn trên thế giới ít dám thực hiện, nhưng tại Bệnh viện Nhi T.Ư đã đưa phẫu thuật này vào danh mục mổ thường quy.

Ngoài ra, hàng loạt các bệnh viện trong nước đều thực hiện được các kỹ thuật cao. Như Bệnh viện đại học Y dược TP Hồ Chí Minh đã áp dụng thành công kỹ thuật nong mạch điều trị bệnh mạch máu não và tủy sống. Bằng phương pháp can thiệp trong lòng mạch, các tổn thương mạch máu nằm rất sâu trong não hay những tổn thương phức tạp nằm gần vùng thần kinh quan trọng không thể can thiệp bằng phẫu thuật. Bệnh viện Mắt T.Ư là đơn vị đầu tiên áp dụng thành công ghép giác mạc lớp trước và lớp sau và ghép nội mô giác mạc. Tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP Hồ Chí Minh, kỹ thuật vi phẫu đã được áp dụng giúp chuyển ghép xương mác, chuyển ngón chân lên bàn tay thay thế ngón tay cái, chuyển khớp ngón chân lên ngón tay và thay thế khớp khuỷu...

Việc các bác sĩ Việt Nam ứng dụng và triển khai thành công những kỹ thuật cao đã từng bước đáp ứng kịp thời nhu cầu khám, điều trị bệnh của người dân trong nước; góp phần hạn chế số người Việt Nam ra nước ngoài chữa bệnh và bước đầu thu hút người nước ngoài sang Việt Nam chữa bệnh.

Theo Nhandan.com


Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây