I. Một số kết quả nổi bật
Nhìn lại giai đoạn 2010-2016 cho thấy:đầu tư cho khoa học và công nghệ (KH&CN)từ ngân sách nhà nước của tỉnh Hải Dươngcòn thấp, trung bình mỗi năm 30,13 tỷ đồng, đạt khoảng 0,45% tổng chi ngân sách của tỉnh. Tuy đầu tư còn thấp, nhưng hoạt động KH&CN của tỉnh trong những năm quacó những đóng góp rất lớn và thiết thực đối với việc phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Các tổ chức KH&CN đã được kiện toàn theo hướng tách các hoạt động quản lý Nhà nước về KH&CN độc lập với các hoạt động dịch vụ KH&CN. Các đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập đã chuyển đổi hoạt động sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tương đối ổn định.
Trong thời gian qua mọi hoạt động KH&CN của tỉnh luôn được xem xét đến những vấn đề áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, chọn lựa các giống mới, mô hình mới trên tất cả các lĩnh vực: khoa học nông nghiệp, khoa học kỹ thuật công nghệ, khoa học y-dược, khoa học xã hội và nhân văn. Đặc biệt đã tập trung nhiều cả về cơ cấu và nguồn vốn cho lĩnh vực khoa học nông nghiệp, số nhiệm vụ và kinh phí đầu tư trong lĩnh vực này hằng năm chiến trung bình gần 50% số nhiệm vụ KH&CN và kinh phí sự nghiệp khoa học của tỉnh.Riêng trong năm 2016 tổng số nhiệm vụ KH&CN trong lĩnh vực nông nghiệp là 18/33 nhiệm vụ (chiếm 54,5%); kinh phí thực hiện là 8.938,0 triệu đồng (chiếm 54,21%).Các nhiệm vụ KH&CN trong lĩnh vực này đã tập trung vào việc đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống; coi trọng ứng dụng các công nghệ mới trong quản lý, sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường nông thôn. Nghiên cứu, thử nghiệm lựa chọn các giống mới phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh, năng lực của người dân và tập quán sản xuất từng vùng trên địa bàn tỉnh để chuyển giao cho người dân đưa vào sản xuất đại trà; ứng dụng công nghệ sinh học trong xử lý môi trường sản xuất nông nghiệp và môi trường nông thôn; nghiên cứu các giải pháp về quy hoạch phát triển nông thôn; thực hiện các chính sách về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Ngoài ra còn tập trung vào việc đào tạo nghề, phổ biến kiến thức về KH&CN cho nông dân,… Trong những năm gân đây đã nghiên cứu thử nghiệm thành công một số biện pháp canh tác mới, xây dựng thành công nhiều mô hình sản xuất các giống cây trồng và vật nuôi mới, đã kết luận và đưa một số giống lúa, cây rau mầu, giống gia cầm, thủy sản có năng suất, chất lượng vào cơ cấu giống cây trồng vật nuôi của tỉnh để sản xuất đáp ứng nhu cầu của thị trường hiện nay. Đáng chú ý là việc xây dựng và tổ chức thực hiện các mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả cao. Ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ phát triển lúa lai, lúa thuần, lúa chất lượng cao và thay đổi tập quán canh tác nâng cao năng suất lúa, sản xuất cây màu và nuôi thủy sản tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa.
Các giải pháp khoa học trong lĩnh vực trồng trọt đã được áp dụng và phát triển như: thực hiện gieo cấy theo phương thức một vùng, một giống, một thời gian; mô hình tổ chức và quản lý sản xuất lúa tập trung theo “cánh đồng mẫu lớn”, phát triển vùng chuyên sản xuất lúa hàng hóa; giải pháp trồng ngô mật độ cao không làm đất kết hợp đặt bầu, chỉnh tán giảm công lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế trồng ngô so với biện pháp canh tác truyền thống lên 20%; giải pháp kỹ thuật phục tráng giống, cải tạo vườn cây ăn quả kém hiệu quả bằng công nghệ nghép chồi góp phần dải vụ thu hoạch cho cây ăn quả, nâng cao giá trị kinh tế; áp dụng các kỹ thuật nhân giống chủ động sản xuất cung cấp giống chất lượng cho người dân trong và ngoài tỉnh góp phần nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trên đơn vị diện tích.
Tiếp nhận và làm chủ được công nghệ sản xuất một số giống lúa như: Bắc thơm số 7 kháng bạc lá, lúa lai TH 7-2, Hương cốm 4,… để cung ứng cho người dân trong và ngoài tỉnh, trong đó tỉnh có quyền sở hữu về giống Bắc thơm số 7 kháng bạc lá. Việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất lúa đã góp phần đưa năng suất lúa bình quân của tỉnh lên 60,4 tạ/ha/vụ, cao hơn năng suất lúa trung bình của cả nước (56,6 tạ/ha) 4,2 tạ/ha. Xây dựng thành công các cánh đồng mẫu lớn sản xuất các giống lúa chất lượng cho hiệu quả kinh tế cao, phát triển các mô hình cơ giới hóa từ khâu làm đất, sản xuất mạ khay, cấy bằng máy đến khâu thu hoạch bằng máy giảm chi phí sản xuất nâng cao hiệu quả kinh tế so với sản xuất thông thường từ 6-7 triệu đồng/ha. Sản xuất thử đã kết luận và lựa chọn được nhiều giống lúa đưa vào cơ cấu giống lúa của tỉnh , triển khai mở rộng hàng ngàn ha giống lúa mới cho hiệu quả kinh tế cao như các giống lúa: lúa thuần RVT, PC6, P6 ĐB, GL 105, Hương cốm 4; các giống lúa lai TH7-2, Bio 404, Nghi Hương 2308; Hương ưu 3068, v.v…
Áp dụng các biện pháp canh tác mới, chủ động xây dựng hệ thống sản xuất giống sạch bệnh; các giống cây rau mầu, cây công nghiệp và cây ăn quả mới được nghiên cứu, sản xuất thử, kết luận phù hợp với điều kiện của tỉnh có năng suất, chất lượng, đạt hiệu quả kinh tế cao đã được đưa vào cơ cấu giống của tỉnh, mở rộng tạo các vùng sản xuất hàng hóa như các giống: cà chua ghép gốc cà tím, khoai tây Sinora, bí xanh, dưa hấu F1 super Hoàn Châu, Thúy Đào 169, và các giống ngô nếp lai,… Các kết quả nghiên cứu đã góp phần đưa sản lượng cây rau mầu các loại đạt trên 663.222 tấn, nâng cao giá trị sản xuất/ha đất trồng trọt, xây dựng được một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung giá trị sản xuất đạt 150-300 triệu đồng/ha/năm.
Trong nhiều năm tỉnh đã đầu tư nghiên cứu áp dụng các biện pháp phục tráng giống, cải tạo vườn cây ăn quả kém hiệu quả bằng công nghệ nghép chồi; đã đưa 7 giống cây ăn quả mới vào cơ cấu cây trồng của tỉnh, một số giống đã được nhân rộng thành các vùng sản xuất hàng hóa hàng trăm hét-ta cho giá trị kinh tế cao, như các giống: Thanh long ruột đỏ, ổi lê Đài Loan, ổi trắng, cam vinh... Hiện nay tỉnh đã đầu tư xây dựng và duy trì được vườn cây ăn quả đầu dòng với 23 loại cây ăn quả quí hiếm gồm 700 cây các loại như: Vải thiều, nhãn sớm, nhẫn muôn, bưởi đào Thanh Hà, ổi, cam,… sản xuất và cung cấp giống đảm bảo chất lượng cho người dân trong và ngoài tỉnh. Triển khai áp dụng các kỹ thuật tiến bộ về giống, chăm sóc, bảo quản, rải vụ kéo dài thời gian thu hoạch cùng với quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP cho các vùng sản xuất hàng hóa hàng đối với các cây quả như: vải thiều, nhãn, cây na, cây cam, cây ổi với diện tích hàng trăm hét-ta cho giá trị sản xuất tăng 15-20% so với sản xuất trước đây. Cùng với việc quy hoạch phát triển các vùng sản xuất cây ăn quả hàng hóa, tỉnh còn đầu tư phát triển mở rộng vùng sản xuất các giống chè mới Phúc Vân Tiên, Kim Tuyên thay thế vườn chè giống cũ và các vườn cây kém hiệu quả trên địa bàn thị xã Chí Linh, cung cấp nguyên liệu cho chế biến chè, duy trì và phát triển thương hiệu trà Dược Sơn mới được xây dựng.
Tỉnh Hải Dương đã nghiên cứu và thực hiện quy hoạch và phát triển chăn nuôi theo mô hình tập trung qui mô trang trại, gia trại. Đến nay chất lượng đàn gia súc, gia cầm được nâng lên, đàn lợn nái chiếm 14% tổng đàn, có khoảng 42% gia cầm giống mới được đưa vào sản xuất, tỷ lệ bò lai chiếm 83%. Để đạt được kết quả này, tỉnh đã nghiên cứu, áp dụng các giải pháp kỹ thuật như: đưa các dòng lợn nái mới vào sản xuất đã tăng năng suất và chất lượng thịt cho đàn lợn của tỉnh, tỷ lệ thịt lạc đạt 58-62% và cho hiệu quả kinh tế cao hơn các dòng nái khác trên 10%, phát triển một số giống lợn ngoại như: Landrace, Yorkshire, Piétrain RéHal, PiDu … lại tạo đàn lợn lai thương phẩm có năng suất, chất lượng thịt cao. Đến năm 2016 toàn tỉnh đã có 945 trang trại chăn nuôi gia súc gia cầm, tổng đàn lợn 657.000 con, tổng đàn gia cầm 11,7 triệu con, tổng đàn trâu bò 25.000 con; xây dựng được 7 khu chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung với quy mô từ 3 ha trở lên/khu tại 6 huyện trong tỉnh, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Các giống gia cầm mới cũng đã được đưa vào sản xuất thử nghiệm, rồi sản xuất hàng hóa tại các huyện trong tỉnh như: gà lông màu, Lương Phượng, gà mía lai, gà ri lai, gà chọi lai, vịt Super, v.v... Từ năm 2015 tỉnh đã xây dựng được nhãn hiệu tập thể “Gà đồi Chí Linh”, góp phần ổn định trong chăn nuôi gia cầm của tỉnh.
Đối với thủy sản tỉnh Hải Dương đã đầu tư cho việc tiếp nhận công nghệ sản xuất và xây dựng hoàn chỉnh khu sản xuất con giống cá Rô phi đơn tính đực lai tạo bằng công nghệ lai xa, cá chép V1 có thể sản xuất được trên 3,0 triệu con giống/năm cung cấp giống đáp ứng cho nhu cầu người dân trên địa bàn tỉnh,... Đến nay các giống cá rô phi đơn tính đực, cá rô phi từ Điêu Hồng, cá chép V1 và một số loại cá đặc sản khác đã được phát triển sản xuất mở rộng ở 12 huyện, thị xã, thành phố trên toàn tỉnh, diện tích nuôi đã lên tới trên 10.847 ha, sản lượng hiện nay đạt trên 66.672 tấn/năm, giá trị sản xuất thủy sản đạt 2.417,3 tỷ đồng…., riêng cá rô phi đạt trên 18.000 tấn/năm.
Để phát triển thị trường cho các sản phẩm nông sản, sản phẩm các làng nghề tỉnh Hải Dương luôn chú trọng đến việc hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm của tỉnh. Đến năm 2016 tỉnh đã xây dựng được 01 chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm vải thiều Thanh Hà, 18 nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm nông sản đặc sản và các sản phẩm nông sản, sản phẩm làng nghề khác như: Gạo nếp cái hoa vàng Kinh Môn, Cà rốt Đức Chính (Cẩm Giàng), Gà đồi Chí Linh, Củ đậu Kim Thành, Sắn dây Kinh Môn, Bánh đa Hội Yên, Bánh gai Ninh Giang, Na Chí Linh, Bưởi Lập Lễ (Thanh Hà), Giầy da Hoàng Diệu (Gia Lộc), …
Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu. Hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp và các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh. Đến nay hầu hết các doanh nghiệp đã xác lập quyền sở hữu công nghiệp, quảng bá thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường; Hải Dương là tỉnh đứng thứ 8 trong toàn quốc về đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp.
Xây dựng thành công mô hệ thống tưới nước theo công nghệ tiên tiến, tiết kiệm nước, thuận lợi cho việc canh tác, giảm nhân công,… nâng cao hiệu quả sản xuất cho 170 ha các vùng sản xuất chuyên rau màu. Kết quả này là cơ sở cho việc ứng dụng, phát triển công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp bắt đầu từ nguồn nước cấp cho các vùng sản xuất được đảm bảo chất lượng và an toàn. Đây là cơ sở khoa học và thực tiễn để tỉnh tiếp tục đầu tư nhân rộng kết quả ra các vùng trồng rau màu trong toàn tỉnh, phát triển các vùng sản xuất rau an toàn, chất lượng.
Xây dựng thành công hệ thống giám sát tự động thông số môi trường nước thải bằng công nghệ GSM/GPRS được thực hiện tại các trạm xử lý nước thải của khu công nghiệp Phúc Điền, Tân Trường, Nam Sách phục vụ hiệu quả cho công tác giám sát, quản lý nước thải. Đây là kết quả nghiên cứu mang lại hiệu quả trong công tác quản lý, với giá thành rẻ hơn rất nhiều so với tiếp nhận chuyển giao từ trong nước, nước ngoài (rẻ hơn 1,2 - 3,8 tỷ đồng/trạm xử lý nước thải). Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý hạ tầng giao thông trên địa bàn tỉnh phục vụ cho công tác quản lý hạ tầng giao thông tại Sở Giao thông vận tải.
Đầu tư thiết bị và ứng dụng công nghệ mới để xử lý chất thải rắn, chất thải lỏng, chất thải khí nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Một số công nghệ cao đã được áp dụng vào sản xuất, đời sống trên địa bàn tỉnh như: công nghệ thông tin, công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật để sản xuất hoa, cây cảnh; công nghệ sinh học trong sản xuất hạt giống lúa lai, sản xuất phân bón vi sinh, sản xuất chế phẩm sinh học, xử lý nước thải, rác thải hữu cơ, vv...Thực hiện điều tra cơ bản về trữ lượng một số khoáng sản (đá vôi, sét, cát,...), nước ngần, nước mặt và môi trường trên địa bàn tỉnh, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái.
Các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học nhân văn đã cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội;quy hoạch phát triển bền vững cho từng vùng trên địa bàn tỉnh; cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Trung ương vào điều kiện thực tiễn của tỉnh; xây dựng các mô hình chuyển dịch kinh tế trong xây dựng nông thôn mới, dồn điền đổi thửa gắn với chỉnh trang đồng ruộng và tổ chức lại sản xuấttheo hướng sản xuất hàng hóa tập trung.Nghiên cứu xây dựng được các luận cứ khoa học và các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, bảo tồn phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng tiêu biểu, các giải pháp điều chỉnh biến đổi cấu trúc xã hội nông thôn để nâng cao hiệu quả xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn tới
Áp dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học về y học, dược học trong chẩn đoán và điều trị bệnh cho nhân dân tại các bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến huyện. Một số bài thuốc y học cổ truyền được nghiên cứu áp dụng rộng rãi trong điều trị bệnh nhân, nghiên cứu các giải pháp quản lý và điều trị một số bệnh có xu hướng phát triển.
II. Định hướng trong những năm tới
Để đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ góp phần hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Hải Dương trong thời gian 5 năm tới, tỉnh Hải Dương xác định một số giải pháp sau:
1) Xác định khoa học nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm; nhiệm vụ khoa học và công nghệ hằng năm lấy khoa học ứng dụng là công cụ chủ yếu và phải được gắn kết với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh trong 5 năm tới. Trong những năm tới tỉnh Hải Dương tiếp tục tập trung đầu tư trong việc nghiên cứu, rà soát, lập quy hoạch phát triển từng cây trồng chủ lực, vùng sản xuất hàng hoá tập trung trên phạm vi toàn tỉnh và của từng địa phương trong tỉnh. Tiếp tục lựa chọn, đưa nhanh các giống cây trồng có năng suất, chất lượng cao, thích ứng tốt với thời tiết, chống chịu sâu bệnh tốt, phù hợp thị trường, cho hiệu quả cao vào sản xuất; mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp theo quy trình sản xuất an toàn. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đối với cây rau và cây hoa. Mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ môi trường, nhất là đối với những thủy sản cho giá trị cao. Tiếp tục nghiên cứu để phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng tập trung như: trang trại, gia trại và xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung tại các huyện trong tỉnh. Tiếp tục tập trung hỗ trợ xây dựng thương hiệu nông sản hàng hóa đối với các sản phẩm nông nghiệp đặc thù, có thế mạnh của tỉnh.
2) Đẩy mạnh ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ KH&CN trong các ngành kinh tế - kỹ thuật của tỉnh,tăng cường mạnh hơn nữa về nguồn vốn cho hoạt động khoa học và công nghệ; phấn đấu tăng kinh phí đầu tư từ ngân sách tỉnh cho khoa học và công nghệ để đến năm 2020 đạt trên 1,5% chi ngân sách của tỉnh. Khuyến khích các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đầu tư kinh phí cho hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là việc đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. Huy động đầu tư kinh phí từ nhiều nguồn vốn; mở rộng hợp tác quốc tế để thu hút nguồn kinh phí thuộc các dự án ODA và các nguồn kinh phí khác cho hoạt động khoa học và công nghệ của tỉnh.
3) Tiếp tục kiện toàn cơ quan quản lý và các tổ chức khoa học và công nghệ theo Luật Khoa học và Công nghệ mới sửa đổi. Cải tiến hoạt động của Hội đồng khoa học và công nghệ tỉnh, huyện, thị xã, thành phố và các sở, ban, ngành, đoàn thể để chủ động tham mưu những vấn đề KH&CN, nhất là việc lựa chọn và áp dụng các tiến bộ KH&CN trong sản xuất và đời sống của địa phương. Tăng cường thực hiện cơ chế đặt hàng, và khoán nhiệm vụ đến sản phẩm cuối cùng.
4) Đẩy mạnh phát triển thị trường và thông tin khoa học và công nghệ, theo hướng tăng cường tuyên truyền để thực hiện nghiêm pháp luật về sở hữu trí tuệ, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền để thông tin khoa học và công nghệ đến tận cơ sở và đông đảo nhân dân áp dụng vào sản xuất và đời sống. Xây dựng thương hiệu và thương mại hóa sản phẩm; phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ và tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ. Xây dựng cơ sở dữ liệu của tỉnh về công nghệ, chuyên gia công nghệ, kết nối cung - cầu sản phẩm KH&CN để tạo đà cho việc hình thành thị trường KH&CN tại địa phương.
Vũ Ngọc Dương