Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ 2010 - 2015

BÁO CÁO CHÍNH TRỊ TRÌNH ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XV. NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN LỰC, PHÁT TRIỂN NHANH, BỀN VỮNG, TẠO NỀN TẢNG ĐỂ ĐẾN NĂM 2020 HẢI DƯƠNG CƠ BẢN TRỞ THÀNH TỈNH CÔNG NGHIỆP.
Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ 2010 - 2015
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XIV
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV được triển khai thực hiện trong bối cảnh có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Song, với quyết tâm và nỗ lực phấn đấu, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã vượt qua mọi khó khăn thách thức giành được những kết quả quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực: kinh tế tăng trưởng khá, đạt cao hơn mức tăng trưởng bình quân chung của cả nước; văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ; an ninh, quốc phòng đảm bảo; công tác xây dựng Đảng và hoạt động của hệ thống chính trị có chuyển biến tích cực.
A. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 9,8%/năm (mục tiêu tăng 11,5%/năm) . Quy mô kinh tế của tỉnh được nâng lên, tổng sản phẩm năm 2010 gấp 2,3 lần so với năm 2005 . GDP bình quân đầu người đạt 17,9 triệu đồng, tương đương 964 USD (mục tiêu 17 triệu đồng). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ chuyển dịch từ 27,1% - 43,6% - 29,3% năm 2005 sang 23,0% - 45,4% - 31,6% năm 2010 (mục tiêu 19% - 48% - 33%). Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tương ứng từ 70,5%-15,9%-13,6% năm 2005 sang 54,5% - 27,3% - 18,2% năm 2010.
2. Nông nghiệp phát triển tương đối ổn định, kinh tế nông thôn có bước chuyển dịch tích cực
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp trong các năm qua, nhưng sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối ổn định, giá trị sản xuất tăng bình quân 2,1%/năm (mục tiêu tăng 4,5%); trong đó: trồng trọt và chăn nuôi tăng bình quân 1,3%/năm (mục tiêu 3,6%/năm), lâm nghiệp tăng bình quân 3,3%/năm (mục tiêu 4,3%/năm), thuỷ sản tăng bình quân 11,9%/năm (mục tiêu 11-12%/năm). Công tác quản lý, phát triển và bảo vệ rừng được thực hiện tốt.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi - thuỷ sản. Quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các đơn vị sản xuất giống cây trồng, vật nuôi và thực hiện nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng diện tích lúa lai và lúa chất lượng cao. Năng suất lúa bình quân đạt 125 tạ/ha/năm, bình quân lương thực đầu người đạt 450 kg/năm. Bước đầu xây dựng được một số mô hình sản xuất rau quả theo công nghệ tiên tiến . Giá trị sản phẩm trên 1 ha đất nông nghiệp năm 2010 ước đạt 73,5 triệu đồng (mục tiêu 55 triệu đồng/ha). Chăn nuôi - thuỷ sản từng bước phát triển theo hướng tập trung, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh môi trường, đến nay đã hình thành 5 khu chăn nuôi gia súc, gia cầm và 8 vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung.
Kinh tế nông thôn tiếp tục có bước chuyển dịch tích cực. Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề được khuyến khích phát triển, giá trị sản xuất tăng bình quân 27,3%/năm (mục tiêu 25%/năm); số lượng làng có nghề tăng, quy mô nhiều làng nghề được mở rộng. Hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nông thôn được cải thiện khá rõ: cải tạo, nâng cấp trên 3.000 km đường giao thông nông thôn, có trên 100 xã đã cứng hoá 100% các tuyến đường nội bộ. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh năm 2010 đạt 88% (mục tiêu 90%). Công tác khuyến nông, dạy nghề, tập huấn cho nông dân được duy trì. Cơ giới hoá các khâu trong sản xuất nông nghiệp có bước tiến đáng kể . Toàn tỉnh đã có 2.523 trang trại, tăng hơn 3 lần so với năm 2005, nhiều trang trại mở rộng quy mô và nâng cao giá trị sản xuất.

m12
3. Công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại; quy mô, năng lực sản xuất, sản phẩm một số ngành được nâng lên
Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 13,2%/năm (mục tiêu 20%/năm); trong đó công nghiệp tăng bình quân 13,9%/năm, quy mô sản xuất công nghiệp năm 2010 gấp gần hai lần so với năm 2005. Cơ cấu ngành công nghiệp theo thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng công nghiệp nhà nước, tăng tỷ trọng công nghiệp ngoài nhà nước và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp nhà nước - ngoài nhà nước - khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2005 là 41,2% - 20,9% - 37,9%, năm 2010 là 25,1% - 26,3% - 48,6%).
Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đạt bình quân 13,9%/năm. Các ngành công nghiệp công nghệ cao và có lợi thế cạnh tranh tăng trưởng cao (bình quân 15,2%/năm); trong đó công nghiệp cơ khí, điện tử tăng 2 lần, sản lượng xi măng tăng hơn 2 lần, thức ăn chăn nuôi tăng 2,7 lần so với năm 2005. Duy trì và mở rộng sản xuất công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, giá trị sản xuất tăng bình quân 14,9%/năm. Toàn tỉnh có 18 khu công nghiệp, 34 cụm công nghiệp, trong đó nhiều khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy cao. Nhiều dự án mới có quy mô lớn, trình độ công nghệ tiên tiến đi vào hoạt động (trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), làm tăng năng lực và quy mô của một số ngành sản xuất mũi nhọn.
4. Dịch vụ phát triển khá nhanh, đáp ứng tốt hơn cho sản xuất và đời sống nhân dân
Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 14,8%/năm (mục tiêu 13%/năm). Một số lĩnh vực tăng nhanh cả về quy mô và chất lượng như: xuất khẩu, bưu chính viễn thông, vận tải, tài chính, bảo hiểm... Thương mại nội địa phát triển khá, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội tăng bình quân 22%/năm. Hệ thống hạ tầng thương mại được tăng cường đầu tư. Tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu 5 năm đạt 2 tỷ 788 triệu USD, tăng 51%/năm (mục tiêu 25%/năm). Hoạt động dịch vụ du lịch phát triển khá, doanh thu tăng bình quân 15,2%/năm (mục tiêu 22%/năm); lượng khách du lịch tăng bình quân 20,6%/năm, các cơ sở lưu trú phát triển nhanh.
Bưu chính - viễn thông phát triển mạnh, doanh thu tăng bình quân 29,9%/năm (mục tiêu 24 - 25%). Dịch vụ vận tải phát triển nhanh, doanh thu tăng bình quân 32%/năm, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia , các chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Dịch vụ tài chính, ngân hàng phát triển nhanh ; tổng nguồn vốn huy động toàn ngành tăng bình quân 47,5%/năm; trong đó nguồn vốn huy động tại chỗ tăng bình quân 48%, gấp hơn 2 lần so với kế hoạch. Tổng dư nợ cho vay tăng bình quân 42%/năm (mục tiêu 25%/năm), chất lượng tín dụng được nâng lên . Dịch vụ bảo hiểm phát triển, tổng doanh thu tăng bình quân 22%/năm.
5. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, quản lý thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ
Môi trường đầu tư của tỉnh tiếp tục được cải thiện, hoạt động xúc tiến đầu tư được đổi mới cả về nội dung và hình thức, cải cách thủ tục hành chính đạt kết quả bước đầu. Trong 5 năm, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn đạt 73.500 tỷ đồng (mục tiêu trên 40.000 tỷ đồng), tăng bình quân 24,7%/năm; trong đó vốn nhà nước chiếm 21,6% (tăng bình quân 15,9%/năm), vốn đầu tư từ khu vực dân doanh chiếm 57,2% (tăng bình quân 30,4%/năm), vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,2% (tăng bình quân 22,5%/năm). Trong tổng vốn đầu tư xã hội, tỷ trọng đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 7,8%, tăng bình quân 15,9%/năm; khu vực công nghiệp, giao thông, xây dựng 53,9%, tăng bình quân 26,1%/năm; khu vực dịch vụ 38,3%, tăng bình quân 24,3%/năm.
Công tác quản lý nhà nước về đầu tư có bước chuyển biến, nhất là nguồn vốn từ ngân sách, khắc phục dần tình trạng đầu tư dàn trải. Tiếp tục đầu tư tu bổ hệ thống đê điều, thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, các trạm bơm đáp ứng yêu cầu tưới, tiêu; xây dựng và nâng cấp hệ thống lưới điện, đảm bảo cung cấp điện phục vụ sản xuất tại các khu công nghiệp tập trung. Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp nhiều tuyến đường quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện ; phối hợp triển khai xây dựng đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố Hải Dương lên đô thị loại II và nâng cấp huyện Chí Linh lên thị xã. Tập trung đầu tư hạ tầng phục vụ cho các khu, cụm công nghiệp; mở rộng hệ thống cấp nước sạch cho các đô thị và một số xã, thị trấn. Kết cấu hạ tầng văn hoá - xã hội được quan tâm đầu tư: 95% trạm y tế xã được xây dựng kiên cố (mục tiêu 100%), 81,3% phòng học được xây dựng kiên cố (mục tiêu 95%), 736 nhà văn hoá thôn, khu dân cư được đầu tư xây mới; hoàn thành và đưa vào sử dụng Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi; đang triển khai xây dựng Thư viện tổng hợp tỉnh, nâng cấp và bảo tồn nhiều di tích văn hoá, lịch sử ; xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất ngành thể dục thể thao và hệ thống thông tin, truyền thông. Cơ bản hoàn thiện trụ sở làm việc khối cơ quan Đảng, chính quyền cấp huyện; hỗ trợ đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho trên 100 xã.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tăng khá, từ 2.407,6 tỷ đồng năm 2005 lên 4.005 tỷ đồng năm 2010, bình quân tăng 10,7%/năm, trong đó thu nội địa tăng 15,2%/năm (mục tiêu tăng 10%/năm). Chi ngân sách cơ bản đáp ứng cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi các chương trình mục tiêu, đảm bảo an sinh xã hội và các nhu cầu thiết yếu khác.
6. Các thành phần kinh tế phát triển đúng định hướng
Các thành phần và loại hình kinh tế được tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng để phát triển. Kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực trọng yếu. Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý. Kinh tế tập thể được củng cố và phát triển, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; kinh tế hộ phát triển đa dạng, góp phần tạo việc làm tại chỗ và nâng cao thu nhập cho người dân.
Kinh tế ngoài nhà nước có bước phát triển cả về quy mô và chất lượng, tỷ trọng đóng góp vào GDP tăng từ 54,8% năm 2005 lên 56,4% năm 2010; trong đó kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh, tỷ trọng đóng góp vào GDP tăng từ 13,8% năm 2005 lên 17,8% năm 2010. Trong 5 năm (2006 - 2010) cấp giấy chứng nhận thành lập 2.700 doanh nghiệp tư nhân và cấp chứng nhận đầu tư cho 133 dự án đầu tư nước ngoài . Đến đầu năm 2010, trên địa bàn tỉnh có 3.055 doanh nghiệp hoạt động, trong đó 33 doanh nghiệp nhà nước, 2.895 doanh nghiệp ngoài nhà nước, 127 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
7. Công tác lập quy hoạch, quản lý và thực hiện quy hoạch có chuyển biến
Đã triển khai lập và thực hiện các đồ án quy hoạch cơ bản, mang tính tổng thể, chiến lược như: quy hoạch xây dựng vùng tỉnh và quy hoạch tổng thể phát triển các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, du lịch, văn hoá, thể thao, giáo dục, y tế, dạy nghề...; quy hoạch chi tiết xây dựng một số khu, cụm công nghiệp, khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc; định hướng quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Dương, thị xã Chí Linh và một số quy hoạch chuyên ngành làm cơ sở cho việc quản lý, điều hành, định hướng phát triển trước mắt cũng như lâu dài. Điều chỉnh quy hoạch xây dựng một số thị trấn, lập và phê duyệt quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn và khu vực trung tâm cho 42 xã; bước đầu triển khai thực hiện các đồ án quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Công tác quản lý và thực hiện quy hoạch được quan tâm hơn, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển cho hầu hết các khu vực đô thị và một phần khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh.
II. PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ - XÃ HỘI
1. Giáo dục - đào tạo giữ vững thành tích và phát triển
Mạng lưới trường lớp, quy mô giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển ở tất cả các ngành học, cấp học . Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở được củng cố, thực hiện một bước phổ cập giáo dục trung học phổ thông; chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao và giữ vững thành tích đứng trong tốp đầu cả nước. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được chú trọng, đã có 308 trường đạt chuẩn, gấp 2 lần năm 2005. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được nâng lên, tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn tăng nhanh. Cơ sở vật chất tiếp tục được bổ sung, nâng cấp và xây dựng mới . Công tác xã hội hoá giáo dục, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được đông đảo các cơ quan, đơn vị và nhân dân tích cực hưởng ứng.
2. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ
Tập trung nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tuyến tỉnh, tuyến huyện, quan tâm củng cố tuyến cơ sở (67,3% trạm y tế có bác sĩ công tác thường xuyên), đẩy mạnh phát triển cơ sở y, dược tư nhân . Chú trọng công tác y tế dự phòng, chủ động khống chế và ngăn chặn được các dịch bệnh nguy hiểm trên địa bàn tỉnh. Thực hiện cơ bản các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế: trên 99% trẻ em trong độ tuổi được tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin của chương trình tiêm chủng mở rộng, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn 18%, 100% trẻ dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí; đạt tỷ lệ 27,1 giường bệnh/1 vạn dân (kể cả giường bệnh ở cấp xã) và 6,04 bác sĩ/1 vạn dân; số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế tăng từ 43,3% năm 2005 lên 90,5% năm 2010 (mục tiêu 100%); 100% số xã tham gia vào chương trình kiểm soát, điều trị bệnh nhân lao; trên 50% dân số có thẻ bảo hiểm y tế (tăng 20% so với năm 2005), số xã triển khai khám chữa bệnh cho người có thẻ bảo hiểm y tế đạt 85%.
Công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ và dân số, kế hoạch hoá gia đình tiếp tục được quan tâm thực hiện; duy trì quy mô dân số ổn định, năm 2010 tỷ suất tăng tự nhiên dân số là 9,6‰.
3. Văn hoá, thể dục thể thao tiếp tục phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" có bước phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Đến nay toàn tỉnh có 83,4% số gia đình văn hoá, 57,1% số làng, khu dân cư văn hoá, 81,1% số làng, khu dân cư tiên tiến và 85,6% số cơ quan, đơn vị văn hóa. Nhiều địa phương quan tâm thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, quản lý lễ hội từng bước đi vào nề nếp. Triển khai thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác gia đình.
Nhiều thiết chế văn hoá, thể dục thể thao và hệ thống di tích được quan tâm đầu tư xây dựng. Số thôn, khu dân cư có nhà văn hoá đạt tỷ lệ 78,1%; tỉnh đã đầu tư gần 58,5 tỷ đồng hỗ trợ xây dựng, nâng cấp 1.103/1.431 nhà văn hoá thôn, khu dân cư; hệ thống thư viện và tủ sách pháp luật cơ sở ngày một hoàn thiện. Quan tâm bảo tồn và phát huy di sản văn hoá, nhà truyền thống, nhà tưởng niệm, phục dựng các giá trị văn hoá phi vật thể. Công tác xã hội hoá hoạt động văn hoá, thể thao bước đầu được xã hội quan tâm và nâng cao chất lượng. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì và có bước phát triển; thể thao thành tích cao giữ vững thứ hạng trong tốp 10 tỉnh, thành mạnh nhất toàn quốc. Hoạt động văn hoá, văn học nghệ thuật từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao của nhân dân trong tỉnh.
4. Thông tin và truyền thông phát triển mạnh
Hoạt động của hệ thống phát thanh, truyền hình, báo chí của tỉnh luôn bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần tích cực vào công tác thông tin tuyên truyền, định hướng xã hội, động viên nguồn lực cho xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác quản lý hoạt động xuất bản, in ấn, phát hành đảm bảo chặt chẽ và đúng quy định. Mạng lưới thông tin và truyền thông được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, công nghệ, nhân lực và nâng cao chất lượng, nhất là Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Hải Dương, đài truyền thanh cấp huyện và cơ sở, truyền hình cáp. 100% số xã trong tỉnh có dịch vụ điện thoại, 100% số cơ sở đào tạo được kết nối internet băng thông rộng, tỷ lệ điện thoại thuê bao cố định đạt 17,6 máy/100dân, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi, đáp ứng tốt nhiệm vụ công tác và phục vụ nhu cầu đời sống nhân dân.
5. Công tác lao động, việc làm và thực hiện chính sách an sinh xã hội được đẩy mạnh
Hệ thống đào tạo nghề được mở rộng, đến năm 2010 có 58 cơ sở, tăng 30 cơ sở so với năm 2005; hình thức, nội dung và chất lượng dạy nghề từng bước được đổi mới, nâng cao, bước đầu có sự gắn kết với các cơ sở sử dụng lao động. Giai đoạn 2006 - 2010 đã đào tạo được trên 170 nghìn người, đạt 164,7% kế hoạch, tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 41%. Thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ tạo việc làm , đồng thời đẩy mạnh hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động. Bình quân mỗi năm giải quyết, tạo việc làm mới cho trên 3 vạn lao động.
Quan tâm và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đối với người có công, gia đình chính sách... Đẩy mạnh hoạt động nhân đạo, từ thiện, phong trào đền ơn đáp nghĩa... Thực hiện tốt các chính sách và huy động mọi nguồn lực hỗ trợ giúp đỡ người nghèo như: cho vay đầu tư phát triển sản xuất, cho vay giải quyết việc làm, cho vay và hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người nghèo, miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho bệnh nhân thuộc diện khó khăn; thực hiện các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho người nghèo (tổng kinh phí trên 400 tỷ đồng, chưa kể huy động tài trợ và đóng góp của cộng đồng); hỗ trợ làm mới và sửa chữa nhà cho trên 1.100 hộ nghèo... Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm bình quân 3%/năm (mục tiêu 2%/năm), đến cuối năm 2010 còn 4,9% (mục tiêu 7,5%).
III. TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
1. Công tác quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên được quan tâm
Thực hiện rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010. Toàn tỉnh đã thực hiện chuyển đổi trên 5.358 ha đất (trong đó có 3.846 ha đất nông nghiệp) sang phát triển công nghiệp, dịch vụ là 2.794 ha; giao thông 1.207 ha; nhà ở 166 ha và phục vụ mục đích khác là 1.191 ha. Đến năm 2010 đã giao cho các khu công nghiệp tập trung 1.443 ha đất; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn đạt 92,42%, đất ở đô thị đạt 83,62%, đang triển khai thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp sau chuyển đổi. Lập quy hoạch tổng thể khai thác khoáng sản đến năm 2020 và quy hoạch chi tiết một số vùng nguyên liệu. Tăng cường công tác kiểm tra và xử lý các hoạt động lập bến bãi và khai thác cát, than, đất đồi trái phép. Cơ bản phủ xong đất trống, đồi núi trọc, chuyển đổi mục đích sử dụng đối với một số diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng sang rừng sản xuất để nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên rừng.
2. Công tác bảo vệ môi trường có chuyển biến
Hoàn thành quy hoạch tổng thể môi trường của tỉnh đến năm 2020 và quy hoạch môi trường tại các địa phương tập trung nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp. Áp dụng một số biện pháp xử lý môi trường nông thôn, nước thải và rác thải công nghiệp, y tế, đô thị... Triển khai xây dựng dự án nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt tại Thanh Hà, dự án xử lý nước thải thành phố Hải Dương. Đến nay, 100% các thị trấn đã quy hoạch địa điểm chôn lấp rác tập trung; đa số các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, tuyến huyện được trang bị lò đốt rác thải y tế và có hệ thống xử lý rác thải, nước thải đạt tiêu chuẩn. Bước đầu tiến hành hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải công nghiệp nguy hại. Một số cơ sở sản xuất lớn đã lắp đặt và sử dụng thiết bị chống ô nhiễm môi trường. Xử lý cơ bản việc sản xuất gạch bằng lò thủ công truyền thống và một số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh. Tăng cường công tác xã hội hoá, huy động nhiều nguồn vốn đầu tư cho xử lý và bảo vệ môi trường.
3. Hoạt động khoa học và công nghệ được chú trọng
Trong 5 năm đã có 183 nhiệm vụ khoa học và công nghệ được thực hiện với tổng kinh phí đầu tư trên 85 tỷ đồng, bình quân tăng 21%/năm; trong đó đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng chiếm 82%. Phần lớn các nhiệm vụ khoa học và công nghệ được lựa chọn có giá trị ứng dụng trong sản xuất và đời sống; hiệu quả thể hiện khá rõ trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, đồng thời góp phần tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc về môi trường, phát triển công nghệ thông tin, đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị...
IV. CÔNG TÁC AN NINH, QUỐC PHÒNG, THANH TRA, TƯ PHÁP
1. Đảm bảo tốt an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
Thực hiện có hiệu quả Chiến lược an ninh quốc gia, giữ vững an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh thông tin. Triển khai đồng bộ các biện pháp bảo đảm tốt an ninh nông thôn, đô thị, tập trung giải quyết tình hình khiếu kiện phức tạp và phòng chống các loại tội phạm, nhất là ma tuý, cờ bạc, mại dâm ; tỷ lệ khám phá án đạt 75%, trong đó trọng án đạt 90%. Công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội được tăng cường. Thực hiện đồng bộ các giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn và ùn tắc giao thông. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh, xây dựng và nhân rộng mô hình làng an toàn, khu dân cư an toàn, cơ quan doanh nghiệp an toàn về an ninh, trật tự.
2. Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được tăng cường
Chăm lo xây dựng quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc. Công tác xây dựng lực lượng bộ đội thường trực, dự bị động viên, dân quân tự vệ, tuyển quân, tuyển sinh quân sự được chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện, hội thi, hội thao, diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập quốc phòng - an ninh ở các cấp. Thực hiện tốt công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa phương, phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn, chính sách - hậu phương quân đội. Chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng cao một bước.
3. Công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có tiến bộ
Hoạt động thanh tra tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng việc kiểm tra thực hiện kết luận sau thanh tra; gắn nội dung thanh tra với công tác phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện và ngăn chặn, xử lý nhiều sai phạm trên các lĩnh vực. Công tác tiếp dân được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm và duy trì thường xuyên theo đúng luật định, chất lượng giải quyết đơn thư có hiệu quả hơn, đạt tỷ lệ bình quân 84,7% . Số lượt công dân đến phòng tiếp dân của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong tỉnh để khiếu nại, tố cáo có xu hướng giảm dần. Nhiều vụ việc khiếu tố phức tạp, đông người được lãnh đạo tỉnh và cấp uỷ, chính quyền các cấp trực tiếp đối thoại với nhân dân và tập trung giải quyết.
4. Công tác tư pháp và cải cách tư pháp được đẩy mạnh
Các cơ quan tư pháp đã thực hiện tốt hơn yêu cầu của công tác cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Việc bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử thực hiện theo quy định của pháp luật, không để xảy ra oan, sai. Thực hiện tăng thẩm quyền xét xử cho cơ quan toà án cấp huyện, khắc phục những bất cập trong việc tranh tụng tại tòa, đảm bảo quyền dân chủ của luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng . Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp có chuyển biến tích cực; công tác thi hành án dân sự có tiến bộ. Cơ sở vật chất, trang bị phương tiện phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp được quan tâm đầu tư.
V. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN
1. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng được tăng cường và đổi mới
Việc học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của các cấp uỷ được đổi mới một bước, coi trọng việc chỉ đạo cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết Đảng các cấp thành các chương trình, kế hoạch hành động, các đề án cụ thể để triển khai thực hiện; đi đôi với thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện. Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được coi trọng, triển khai thực hiện quy định về "Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trên địa bàn tỉnh Hải Dương" đã phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị làm công tác tư tưởng, tuyên truyền đúng định hướng với các nội dung phong phú, đa dạng, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương. Quan tâm nắm tình hình và dư luận xã hội. Tăng cường giáo dục lý luận chính trị, gắn lý luận với thực tiễn . Đẩy mạnh giáo dục truyền thống thông qua việc đưa lịch sử đảng bộ địa phương vào giảng dạy trong các bậc học phổ thông.
2. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" được triển khai sâu rộng và đạt kết quả bước đầu
Các cấp ủy đảng trong tỉnh đã thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Bộ Chính trị về tổ chức, triển khai Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình công tác, cụ thể hóa việc triển khai Cuộc vận động phù hợp với từng địa phương, đơn vị. Việc tổ chức học tập các chuyên đề Cuộc vận động đạt kết quả cao. Các cơ sở đã xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức, lối sống phù hợp theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Công tác tuyên truyền, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được các cấp uỷ quan tâm, trong đó đặc biệt coi trọng việc làm theo tấm gương đạo đức của Bác; đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát đảm bảo Cuộc vận động thực hiện theo yêu cầu đề ra.
3. Công tác xây dựng tổ chức Đảng được quan tâm thực hiện và nâng cao chất lượng
Mô hình tổ chức đảng ở các loại hình từng bước được củng cố, kiện toàn, sắp xếp lại, bổ sung hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ đảm bảo sự thống nhất, hoạt động có hiệu quả. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng khối cơ quan Đảng, đoàn thể, chính quyền cấp huyện và một số đơn vị trên địa bàn. Thực hiện mô hình tổ chức đảng trong các hợp tác xã, thí điểm thành lập chi bộ cơ quan xã, phường, thị trấn; sắp xếp tổ chức những chi bộ có đông đảng viên và thôn, khu dân cư nơi có nhiều chi bộ; thành lập Đảng bộ Khối doanh nghiệp trực thuộc Tỉnh uỷ. Tổ chức đại hội cấp cơ sở và cấp trên cơ sở đạt kết quả tốt. Triển khai thực hiện thí điểm chủ trương đại hội đảng bộ cấp cơ sở trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư ở 26 đảng bộ, đại hội cấp trên cở sở bầu trực tiếp bí thư ở 3 đảng bộ và bố trí bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch UBND ở 7 xã, thị trấn, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Phong trào thi đua xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh được chú trọng, ngày càng đi vào nền nếp và đạt hiệu quả thiết thực, đồng thời quan tâm củng cố các cơ sở đảng yếu kém. Chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, sinh hoạt chi, đảng bộ được nâng cao; nội dung sinh hoạt theo chuyên đề được mở rộng. Công tác quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên được duy trì. Chú trọng đánh giá, phân tích chất lượng đảng viên và tổ chức đảng theo đúng quy định. Hằng năm, số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt trên 85%, tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra , số cơ sở đảng yếu kém giảm dần . Công tác phát triển đảng viên được quan tâm và coi trọng chất lượng, bình quân mỗi năm kết nạp được gần 2.500 đảng viên.
4. Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai đồng bộ và đạt một số kết quả tích cực
Các quy định, quy chế về công tác cán bộ thường xuyên được rà soát, xây dựng, bổ sung và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Công tác quy hoạch cán bộ được quan tâm thực hiện đồng bộ ở cả 3 cấp. Chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho từng đối tượng, từng chức danh cán bộ. Thực hiện đánh giá cán bộ (định kỳ hằng năm và trước khi quy hoạch, giới thiệu ứng cử, bổ nhiệm, luân chuyển...) và bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ đảm bảo theo quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai. Công tác luân chuyển cán bộ đã gắn với quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và định hướng phát triển lâu dài. Công tác tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức có đổi mới và nâng cao chất lượng. Các chế độ, chính sách đối với cán bộ được quan tâm thực hiện.
Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Mặt trận, đoàn thể, cơ quan nhà nước được rà soát, kiện toàn đúng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá X). Tiến hành sắp xếp tổ chức bộ máy và sửa đổi, bổ sung quy định chức năng, nhiệm vụ các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, cấp huyện theo Nghị định của Chính phủ; chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp và từng bước tách hoạt động sự nghiệp ra khỏi cơ quan hành chính nhà nước; triển khai khoán biên chế, kinh phí và áp dụng chế độ tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, bước đầu đạt kết quả tích cực. Tổ chức Hội đồng nhân dân các cấp được quan tâm kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên. Ban hành quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy các ban xây dựng Đảng, Văn phòng Tỉnh uỷ, Trường Chính trị tỉnh theo quyết định của Ban Bí thư Trung ương.
m11111
5. Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng được tăng cường, chất lượng và hiệu quả được nâng cao
Tỉnh ủy sớm cụ thể hóa và triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, quy chế, quy định của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng; ban hành một số quy định, quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong tỉnh về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng. Các cấp uỷ đã quan tâm hơn việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện cho uỷ ban kiểm tra cấp mình thực hiện nhiệm vụ theo quy định Điều lệ Đảng, tập trung kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm và các lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực. Chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, hằng năm được Tỉnh uỷ duy trì có nền nếp và hiệu quả ; đồng thời triển khai thực hiện tốt các cuộc kiểm tra theo sự chỉ đạo của Trung ương. Tích cực giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của tổ chức đảng và đảng viên, không để tồn đọng, kéo dài . Việc thi hành kỷ luật trong Đảng nhìn chung được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục quy định .
6. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có nhiều đổi mới
Các cấp uỷ đảng đã chú trọng xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, chương trình, kế hoạch công tác; quy định rõ chức trách, nhiệm vụ, thẩm quyền của tập thể và cá nhân; chỉ đạo các mặt công tác có trọng tâm, trọng điểm. Tập trung đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng ra nghị quyết, phát huy được trí tuệ tập thể, dân chủ trong Đảng và vai trò của các cơ quan tham mưu. Cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý đã được cụ thể hoá và thực hiện nghiêm túc. Ban thường vụ cấp uỷ và thường trực cấp uỷ duy trì tốt chế độ định kỳ nghe, cho ý kiến định hướng về nội dung chủ yếu các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; về chủ trương triển khai thực hiện những vấn đề quan trọng thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; về hoạt động của các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tăng cường chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, quan tâm lãnh đạo công tác dân vận; đồng thời chú trọng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị và việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, phát huy vai trò của tập thể và người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
7. Công tác cải cách hành chính, hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp tiếp tục được đổi mới
Tập trung cải cách thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực bức xúc, liên quan nhiều đến tổ chức và công dân, từng bước đơn giản hóa và giảm thời gian giải quyết. Xây dựng, rà soát, bổ sung và thực hiện mô hình "một cửa", "một cửa liên thông" trên một số lĩnh vực phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Hoàn thành việc thống kê thủ tục hành chính và công bố bộ thủ tục hành chính dùng chung cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã và bộ thủ tục hành chính của các sở, ngành.
Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, nhất là việc tiếp xúc cử tri; tăng cường hoạt động giám sát theo chuyên đề, đi sâu vào những vấn đề dư luận xã hội quan tâm và thường phát sinh tiêu cực, sai phạm. Các ý kiến, kiến nghị của cử tri được tổng hợp, phản ánh đầy đủ trong các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được Uỷ ban nhân dân các cấp trả lời, tiếp thu nghiêm túc. Sự phối hợp công tác giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp được duy trì thường xuyên, có hiệu quả.
Uỷ ban nhân dân các cấp từng bước đổi mới và nâng cao năng lực quản lý, điều hành; xây dựng và thực hiện chương trình làm việc đi vào nền nếp. Chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thực hiện phân cấp quản lý nhà nước đối với Uỷ ban nhân dân cấp dưới và các sở, ngành. Phong trào thi đua xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh được đẩy mạnh, mang lại hiệu quả thiết thực.
8. Công tác dân vận được tăng cường, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được nâng lên
Công tác dân vận đã được cấp uỷ, chính quyền các cấp chú trọng chỉ đạo thực hiện, khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố, tăng cường. Thực hiện hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Hệ thống dân vận các cấp đã chủ động tham mưu, giúp cấp uỷ triển khai các nhiệm vụ công tác vận động quần chúng, chỉ đạo thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn, duy trì thực hiện Quy chế công tác dân vận; triển khai thực hiện tốt công tác tôn giáo và công tác dân tộc của Đảng, Nhà nước; tích cực nắm tình hình cơ sở, kịp thời tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, góp phần ổn định tình hình chính trị và hạn chế phát sinh những vấn đề phức tạp tại cơ sở.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương để triển khai nhiệm vụ công tác và các phong trào thi đua, các cuộc vận động. Chú trọng đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng các mặt công tác, hướng mạnh hoạt động về cơ sở, địa bàn thôn, khu dân cư, hộ gia đình. Nhiều cuộc vận động, phong trào do Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phát động có ý nghĩa thiết thực, thu hút đông đảo nhân dân tham gia và đạt hiệu quả cao như: cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư", "Ngày vì người nghèo" và các phong trào "Cựu chiến binh gương mẫu", "Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo", "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", "Lao động giỏi, lao động sáng tạo", "Thanh niên tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng"... Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã có nhiều cố gắng củng cố, xây dựng tổ chức vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và phát triển hệ thống tổ chức, nhất là ở các thôn, khu dân cư, tăng cường kết nạp đoàn viên, hội viên. Chủ động tham gia giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.
9. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm có chuyển biến
Các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và thủ trưởng các đơn vị, địa phương đã quan tâm chỉ đạo và thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, đạt được một số kết quả bước đầu. Coi trọng tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến kịp thời các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; chủ động xây dựng và thực hiện chương trình hành động ở từng địa phương, đơn vị; thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở các cấp và các cơ quan theo quy định. Tích cực rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các quy chế, quy định về quản lý nhà nước phù hợp với yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện kê khai tài sản đối với cán bộ theo quy định và chế độ sử dụng kinh phí, tài sản công. Nhiều đơn vị đã xây dựng quy tắc, chuẩn mực ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ khi thi hành công vụ, thí điểm chuyển đổi vị trí công tác của một số công chức. Chỉ đạo thực hiện việc phân bổ dự toán thu chi ngân sách cho các đơn vị và hướng dẫn việc thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ , sử dụng, mua sắm tài sản bảo đảm công khai, tiết kiệm, đúng quy định. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tập trung chỉ đạo phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng.
B. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN
I. HẠN CHẾ, YẾU KÉM
1. Lĩnh vực phát triển kinh tế
Một số chỉ tiêu kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra (tốc độ tăng trưởng GDP và nông nghiệp, công nghiệp). Kinh tế tăng trưởng chưa bền vững, khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế thấp; quy mô của một số ngành kinh tế còn nhỏ, cơ cấu kinh tế và cơ cấu trong nội bộ từng ngành chuyển dịch chậm.
Sản xuất nông nghiệp hiệu quả còn thấp, tỷ trọng đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp, nông thôn chưa thoả đáng; phát triển chăn nuôi tập trung còn nhiều khó khăn; chưa hình thành được nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung có quy mô và sản lượng lớn.
Công nghiệp phát triển chưa mạnh và chưa có nhiều dự án công nghệ cao, đa số các dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp có quy mô nhỏ. Tiểu thủ công nghiệp, làng nghề phát triển thiếu quy hoạch.
Kinh tế dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, năng lực cạnh tranh của nhiều ngành dịch vụ còn yếu, hệ thống hạ tầng các ngành dịch vụ còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Công tác quy hoạch nhìn chung chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp giữa các ngành (xây dựng hạ tầng đô thị, giao thông, điện, nước, viễn thông...), thiếu tầm nhìn chiến lược. Công tác tổ chức thực hiện quy hoạch và quản lý quy hoạch ở một số lĩnh vực còn hạn chế. Việc phân cấp quản lý quy hoạch cho chính quyền cấp huyện, cấp xã chưa rõ ràng.
Hiệu quả khai thác, sử dụng vốn đầu tư chưa cao. Tiến độ thực hiện một số dự án còn chậm, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Việc chấp thuận một số dự án đầu tư chưa thực hiện nghiêm túc theo quy hoạch (tỷ lệ dự án nằm ngoài khu, cụm công nghiệp khá nhiều). Việc phân bổ, sử dụng một số nguồn vốn còn dàn trải, thiếu tập trung gây lãng phí. Công tác phân cấp quản lý, kiểm tra, đôn đốc hoạt động của các dự án sau khi cấp giấy chứng nhận đầu tư còn hạn chế, xử lý vi phạm chưa nghiêm.
mmmmmm
2. Lĩnh vực văn hoá - xã hội
Một số chỉ tiêu về giáo dục - đào tạo, văn hoá, y tế chưa đạt mục tiêu đề ra. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, hệ thống thiết chế văn hoá, thể dục thể thao còn hạn chế và thiếu đồng bộ. Chất lượng giáo dục tại chức còn thấp; sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên chưa tốt. Chất lượng dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp nhân lực cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Thiết bị, phương tiện y tế dự phòng và chất lượng khám chữa bệnh tuyến huyện còn hạn chế, công tác quản lý hành nghề y tế tư nhân ở một số nơi trên địa bàn chưa chặt chẽ, số lượng bác sĩ còn thấp và chưa có chính sách phù hợp để thu hút. Tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng và mất cân bằng giới tính khi sinh ở mức cao.
Việc triển khai thực hiện quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hoá, thể thao và du lịch chưa đảm bảo tiến độ. Hiệu quả sử dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan hành chính chưa cao, công tác quản lý nhà nước về dịch vụ kinh doanh internet trên một số địa bàn trong tỉnh chưa chặt chẽ.
Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, sự phân hoá giàu nghèo tiếp tục gia tăng.
3. Công tác quản lý tài nguyên - môi trường và hoạt động khoa học - công nghệ
Việc quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản trên địa bàn chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng lãng phí đất đai, khai thác không theo quy hoạch, khai thác trái phép tài nguyên, khoáng sản gây thất thoát tài nguyên và phá vỡ cảnh quan tự nhiên chưa được giải quyết kịp thời, triệt để. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm.
Công tác quản lý nhà nước về môi trường còn thiếu chặt chẽ. Tình trạng ô nhiễm môi trường (nguồn nước, không khí, khói bụi, tiếng ồn, rác thải, nước thải...) diễn ra ở nhiều nơi trong tỉnh, một số cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nghiêm trọng nhưng chậm được xử lý và giải quyết dứt điểm.
Một số đề tài khoa học có hàm lượng khoa học thấp và khả năng ứng dụng trong thực tế chưa cao; còn thiếu nhiệm vụ khoa học và công nghệ đa ngành, liên ngành, liên vùng, trung hạn, dài hạn, các chương trình khoa học công nghệ trọng điểm.
4. Công tác an ninh, quốc phòng, thanh tra, tư pháp
Công tác đảm bảo an ninh nông thôn còn tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định (nhất là vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng, ô nhiễm môi trường...). Tình hình tai nạn giao thông và tệ nạn xã hội (nhất là ma tuý, cờ bạc) vẫn diễn biến phức tạp. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân có mặt chưa vững chắc. Chất lượng hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên ở cơ sở có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử một số vụ còn hạn chế. Công tác giám định tư pháp còn nhiều bất cập, một số luật sư thực hiện nhiệm vụ với trách nhiệm chưa cao. Công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc chưa kịp thời, còn biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm; trong quá trình giải quyết một số vụ việc chưa chú trọng đối thoại với nhân dân, kết luận và kiến nghị thiếu tính khả thi, chỉ đạo thực hiện kết luận sau thanh tra chưa nghiêm túc.
5. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Công tác tư tưởng còn thiếu sức thuyết phục và tính chiến đấu; nội dung, phương pháp chậm được đổi mới. Việc nắm bắt dư luận xã hội, dự báo tình hình, định hướng tư tưởng còn chậm, bị động trước một số vấn đề phức tạp nảy sinh. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" tuy đạt kết quả bước đầu, nhưng tác động chưa đủ mạnh để chặn đà suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng chưa ngang tầm với yêu cầu của tình hình mới. Việc xây dựng và thực hiện quy chế làm việc của một số cấp uỷ chưa nghiêm túc, hình thức và nội dung sinh hoạt chậm đổi mới. Tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình chưa cao, còn biểu hiện nể nang, ngại va chạm. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ ở một số đơn vị chưa đáp ứng được yêu cầu, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ là lãnh đạo, quản lý còn thấp. Việc luân chuyển cán bộ từ cơ quan khối Nhà nước sang khối Đảng, Mặt trận, đoàn thể và ngược lại còn ít.
Một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa t

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây