Trồng thử và bào chế Nấm Linh Chi làm dựoc phẩm

ĐỀ TÀI TRỒNG THỬ VÀ BÀO CHẾ NẤM LINH CHI LÀM DƯỢC PHẨM CHỮA BỆNH CHO NHÂN DÂN VÀ NÂNG CAO SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG  

Chủ nhiệm đề tài: KS. Nguyễn Duy Sách, Phó Giám đốc Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh Hải Dương.

Cơ quan chủ trì: Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh Hải Dương.

Cơ quan phối hợp thực hiện: Viện Dược liệu - Bộ Y tế; Xí nghiệp Liên hợp Dược Hải Dương.

Thời gian thực hiện: 1998-1999.

Đề tài được tổng kết.

I. MỤC TIÊU

Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất nấm linh chi tại Hải Dương; áp dụng công nghệ của Viện Dược liệu - Bộ Y tế bào chế một số sản phẩm làm thuốc từ nấm linh chi nuôi trồng tại Hải Dương, ứng dụng chữa một số bệnh, từ đó đề xuất mở rộng hướng nuôi trồng và cách bào chế để sử dụng có hiệu quả.

II. TÓM TẮT KẾT QUẢ THỰC HIỆN

1. Hoàn thiện quy trình công nghệ, sản xuất ổn định nấm linh chi tại Hải Dương.

1.1. Kết quả trồng nấm linh chi tại Trung tâm Ứng dụng TBKH Hải Dương.

Để hoàn thiện quy trình công nghệ nuôi trồng nấm linh chi tại Hải Dương, ngày 2/4/1999, Trung tâm đã tiến hành trồng thử 100 túi nấm (mỗi túi 0,5 kg mùn cưa). Kết quả theo dõi cho thấy vào thời vụ thích hợp thì sợi phát triển nhanh hơn; chỉ sau 20 ngày sợi phát triển kín túi và tiến hành phủ đất đã được xử lý, lớp đất phủ dày độ 2 - 2,5 cm. Sau khi phủ đất dùng bình phun để tưới ẩm. Sau 1 tuần quả thể bắt đầu nhú lên, 1 bịch nấm có 3 - 4 quả thể; quả thể phát triển to, đẹp. Trường hợp sợi phát triển kém thì nấm dễ bị bệnh.

Tính đến ngày 15/7/1999 chỉ còn lại 62 bịch nấm phát triển tốt, nhiễm xanh 38 bịch, đạt tỷ lệ 62%. Ngày 18/7/1999 thu hoạch đợt 1 được 1,2 kg nấm tươi, phơi khô được 0,4 kg nấm khô. Ngày 20/9/1999 thu hoạch đợt 2 được 0,3 kg nấm tươi, phơi khô được 0,1 kg nấm khô.

1.2. Kết quả trồng nấm linh chi tại Xí nghiệp Liên hợp Dược Hải Dương.

- Trung tâm Ứng dụng TBKH Hải Dương đã chuyển giao công nghệ sản xuất và bào chế nấm linh chi cho Xí nghiệp Liên hợp Dược Hải Dương trồng thử nghiệm.

- Trung tâm Ứng dụng TBKH cũng đã đào tạo cán bộ kỹ thuật cho Xí nghiệp Liên hợp Dược tiếp thu và làm chủ công nghệ trồng nấm trong điều kiện tự nhiên và đã trồng được 826 bịch nấm.

- Kết quả cuối cùng thu được 460 bịch, đạt 55,7%. Số còn lại bị hỏng do các bệnh mốc trắng, mốc xanh, mốc đen, mối xông và chuột cắn. Nguyên nhân hỏng nhiều là do cơ sở vật chất không bảo đảm.

2. Bào chế nấm linh chi làm dược phẩm chữa bệnh.

Năm 1998-1999, Trung tâm Ứng dụng TBKH Hải Dương đã kết hợp với Viện Dược liệu - Bộ Y tế tiến hành phân tích mẫu nguyên liệu nấm linh chi trồng tại Hải Dương và bào chế nấm linh chi thành 2 dạng sản phẩm: Trà nhúng linh chi và Viên nang linh chi.

Kết quả phân tích nấm linh chi do Trung tâm Ứng dụng TBKH Hải Dương trồng đạt theo tiêu chuẩn cơ sở nấm linh chi.

a. Viên nang linh chi được bào chế theo công thức sau:

Nguyên liệu

1 viên (g)

1000 viên (g)

Hoạt chất chiết xuất từ linh chi tương đương linh chi

1,0

1000

Tinh bột sắn

0,28

280

Avicel

0,01

10

Cồn 90 độ vừa đủ

Hoạt chất chiết xuất từ nấm linh chi được đóng trong nang cứng gelatin. Hoạt chất trong 1 viên tương đương 1 g linh chi.

Quy trình sản xuất viên nang linh chi như sau:

- Xử lý dược liệu: Cân linh chi theo công thức, rửa sạch, để ráo nước, thái nhỏ, sấy ở nhiệt độ 40 - 45 độ C đến khô, xay, sàng qua cỡ rây 3- 4 mm.

- Chiết xuất:

Bột linh chi được làm ẩm trước bằng cồn 70 độ, cho vào bình ngấm kiệt, lèn nhẹ. Đổ cồn 70 độ ngập dược liệu khoảng 10 - 15 cm, ngâm 24 giờ. Rút dịch chiết, tốc độ rút khoảng 20 - 30 giọt/phút.

Chiết bằng cồn 3 lần, dịch chiết tập trung lại, lọc, cho vào nồi cất thu hồi dung môi, đến khi được cao mềm.

Bã bột linh chi cho vào túi vải, rồi cho vào nồi 2 vỏ, đổ nước ngập túi, nấu giữ nhiệt độ 80 độ C trong thời gian 3 giờ, chiết bằng nước 2 lần, dịch chiết gộp lại, lọc, sau đó cho vào nồi cô áp suất thấp, đến khi được cao mềm.

Đổ vào khay, dàn mỏng, sấy ở tủ sấy chân không đến khô.

Cao khô được xay bằng máy, qua mắt rây 0,5 cm, sau đó được bảo quản trong 2 lần túi pôlyetylen, buộc kín, có ghi nhãn đầy đủ.

- Pha chế:

Tinh bột sắn Avicel cho từng thứ qua rây 1 mm rồi cân theo công thức trộn đều.

Trộn hỗn hợp bột trên với cao khô linh chi thật đều, cho hỗn hợp qua rây 1 mm. Dùng cồn 90 độ phun đều lên hỗn hợp cho vừa đủ ẩm, nhào kỹ. Xát hạt qua rây 2 mm. Tãi cốm lên khay, sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ 40 - 45 độ C đến khi cốm se mặt. Lấy cốm, rửa hạt qua rây 2 mm. Sấy lại cốm đến khô (độ ẩm còn khoảng 2 - 3%), sau đó bảo quản trong 2 lần túi pôlyetylen, có nhãn ghi tên người pha chế, ngày pha, số lượng, buộc kín. Cốm được lấy mẫu đi kiểm kiệm bán sản phẩm. Sau khi kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn chuyển cốm sang khâu đóng gói.

- Đóng gói:

Dùng nang gỗ số 0, cân cốm theo số nang của máy, nang thuốc khi đóng xong được lau chùi sạch sẽ, loại bỏ những nang bị bẹp, rách.

Bảo quản viên trong 2 lần túi pôlyetylen, buộc kỹ. Khi đóng được 1/3 lượng cốm của lô thuốc, lấy mẫu đưa kiểm nghiệm bán thành phẩm. Nếu lô thuốc đạt chất lượng mới chuyển sang đóng vào lọ.

Đóng thuốc vào lọ: 20 nang trong 1 lọ, lèn nhẹ thuốc bằng bông đã tiệt trùng, đậy 2 lần nắp, dán nhãn.

b. Dạng trà linh chi.

* Công thức bào chế trà linh chi:

Nguyên liệu

1 túi (g)

1000 túi (g)

Hoạt chất chiết xuất từ linh chi tương đương linh chi

1

1000

Đường Glucoza

2

2000

* Tính chất:

Hoạt chất chiết xuất từ nấm linh chi được đóng trong túi thiếc. Hoạt chất trong túi trà tương đương 1 g linh chi. Cốm trong túi trà có màu nâu nhạt đến thẫm, vị ngọt, mùi thơm của dược liệu đặc trưng.

* Quá trình sản xuất trà linh chi như sau:

- Giai đoạn xử lý dược liệu và chiết xuất tương tự bào chế viên nang.

- Pha chế: Đường Glucoza cho qua rây 1 mm rồi cân theo công thức. Trộn Glucoza với cao khô linh chi thật đều, nhào kỹ. Sát hạt qua rây 2 mm. Tãi cốm lên khay, sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ 40 - 45 độ C đến khi cốm se mặt. Lấy cốm, sửa hạt qua rây 2 mm.

Sấy lại cốm đến khô (độ ẩm còn khoảng 2 - 3%). Cốm khô được bảo quản trong 2 lần túi pôlyetylen, có nhãn ghi tên người pha chế, ngày pha, số lượng, buộc kín. Cốm được lấy mẫu đi kiểm nghiệm bán thành phẩm, khi có kết quả kiểm nghiệm mới chuyển sang khâu đóng gói.

- Đóng gói: vào túi, 2 g cốm trong 1 túi trà. Khi đóng gói được 1/3 số lượng cốm của lô thuốc, lấy mẫu đi kiểm nghiệm bán thành phẩm. Khi có kết quả kiểm nghiệm lô thuốc mới chuyển sang khâu đóng hộp.

II. NHÂN RỘNG KẾT QUẢ THỰC HIỆN

Sau khi nghiệm thu, việc tổ chức sản xuất nấm linh chi gặp nhiều khó khăn, giá thành sản xuất nấm nguyên liệu cao, không cạnh tranh được với nấm linh chi của Trung Quốc và Hàn Quốc. Do đó không mở rộng sản xuất đại trà.

Đến nay, đề tài vẫn tiếp tục được triển khai nhân rộng trong thực tế.


Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây