Lúa P6 ĐB tại huyện Kim Thành. Ảnh Như Lý Hiện nay trên địa bàn các tỉnh phía Bắc diện tích lúa được gieo trồng bằng hai giống Khang Dân và Q5 vẫn là chủ yếu. Tuy vậy, hai giống này cũng có nhiều nhược điểm như: chất lượng gạo kém, hàm lượng amyloza cao ( >23%), chất lượng thương phẩm kém, thời gian sinh trưởng vẫn còn hơi dài chưa thể đáp ứng được cơ cấu 3 - 4 vụ/năm một cách bền vững.
Trong hai năm 2010 – 2011, tiến sỹ Hà Văn Nhân – Phó Giám đốc trung tâm nghiên cứu – Phát triển lúa thuần đã nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất và xây dựng mô hình trình diễn giống lúa ngắn ngày PC6 và P6ĐB tại một số tiểu vùng sinh thái của tỉnh phục vụ cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng với diện tích năm 2010: 50 ha trong đó vụ xuân có diện tích giống PC6 là 11ha, vụ mùa có diện tích giống P6ĐB là 39 ha. Diện tích năm 2011: 370 ha trong đó vụ xuân có diện tích giống PC6 là 10ha, giống P6ĐB là 10ha, vụ mùa có diện tích giống P6ĐB là 350 ha ở xã Tam Kỳ, Cẩm La (Kim Thành); Thống Nhất, Toàn Thắng, Đoàn Thượng, Đồng Quang, Quang Minh, Đức Xương, Gia Khánh, Gia Lương (Gia Lộc); Cộng Lạc (Tứ Kỳ); Hồng Đức (Ninh Giang); Gia Xuyên (Kinh Môn); Nam Hưng (Nam Sách).
Giống lúa P6 đột biến (P6ĐB) là giống lúa mới được chọn lọc tại Bộ môn Công nghệ hạt giống, Viện Cây lương thực – Cây thực phẩm được chọn lọc từ quần thể P6 được xử lý Co60 từ vụ xuân 2002, không bị nảy mầm trên bông như P6, có khả năng chịu rét, chịu nóng tốt, gạo dẻo, không bạc bụng. Thời gian sinh trưởng vụ xuân 105 - 110 ngày; vụ mùa 75-80 ngày. Chiều cao cây: 75 – 95 cm, dạng cây gọn, cứng, màu sắc lá dầy, xanh, góc lá đòng xoắn, thời gian trỗ 5 – 7 ngày tùy từng vụ gieo trồng, năng suất giống P6ĐB vụ xuân 48,3 - 53,3 tạ/ha, vụ mùa 56,5 - 60,1 tạ/ha, trung bình 57 tạ/ha, số hạt chắc/ bông 135- 150 hạt; tỷ lệ lép 10 –25% tùy từng vụ gieo trồng, khối lượng 1000 hạt: 26 – 27 gam. Vỏ trấu hạt có màu vàng sáng, tỷ lệ gạo nguyên 78,2%, hàm lượng Amylose 15 – 16%.
Giống lúa PC6 do Viện CLT – CTP tạo ra từ tổ hợp lai N201/DT122, thời gian sinh trưởng vụ xuân 130 – 135 ngày; vụ mùa : 90 – 95 ngày. Chiều cao cây: 90 – 95 cm, màu lá xanh nhạt, bông to, góc lá đòng nhỏ, hạt xếp xít, có màu vàng đậm, dạng hạt thon dài, chiều dài hạt gạo 6,7cm, tỷ lệ dài/rộng = 3,5. Khối lượng 100 hạt 21 – 22g số hạt/ bông 160 ± 10 hạt. tỷ lệ lép 12 – 18%. PC6 có khả năng chịu rét khá, chống đổ trung bình, ít nhiễm đạo ôn, nhiễm bạc lá và rầy nâu. Có năng suất trung bình vụ xuân 55 – 65 tạ/ha, vụ mùa 50 – 55 tạ/ha, hạt gạo trong, không bạc bụng, cơm mềm, dẻo.
Sử dụng giống ngắn ngày sẽ bớt được số lần phun thuốc BVTV, tiết kiệm chi phí thuốc, tiết kiệm lao động, giảm nguy cơ ôi nhiễm môi trường; có thêm quỹ thời gian để làm cây vụ đông sớm, góp phần tích cực cho việc chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng.
Giống lúa P6 đột biến (P6ĐB) là giống lúa mới được chọn lọc tại Bộ môn Công nghệ hạt giống, Viện Cây lương thực – Cây thực phẩm được chọn lọc từ quần thể P6 được xử lý Co60 từ vụ xuân 2002, không bị nảy mầm trên bông như P6, có khả năng chịu rét, chịu nóng tốt, gạo dẻo, không bạc bụng. Thời gian sinh trưởng vụ xuân 105 - 110 ngày; vụ mùa 75-80 ngày. Chiều cao cây: 75 – 95 cm, dạng cây gọn, cứng, màu sắc lá dầy, xanh, góc lá đòng xoắn, thời gian trỗ 5 – 7 ngày tùy từng vụ gieo trồng, năng suất giống P6ĐB vụ xuân 48,3 - 53,3 tạ/ha, vụ mùa 56,5 - 60,1 tạ/ha, trung bình 57 tạ/ha, số hạt chắc/ bông 135- 150 hạt; tỷ lệ lép 10 –25% tùy từng vụ gieo trồng, khối lượng 1000 hạt: 26 – 27 gam. Vỏ trấu hạt có màu vàng sáng, tỷ lệ gạo nguyên 78,2%, hàm lượng Amylose 15 – 16%.
Giống lúa PC6 do Viện CLT – CTP tạo ra từ tổ hợp lai N201/DT122, thời gian sinh trưởng vụ xuân 130 – 135 ngày; vụ mùa : 90 – 95 ngày. Chiều cao cây: 90 – 95 cm, màu lá xanh nhạt, bông to, góc lá đòng nhỏ, hạt xếp xít, có màu vàng đậm, dạng hạt thon dài, chiều dài hạt gạo 6,7cm, tỷ lệ dài/rộng = 3,5. Khối lượng 100 hạt 21 – 22g số hạt/ bông 160 ± 10 hạt. tỷ lệ lép 12 – 18%. PC6 có khả năng chịu rét khá, chống đổ trung bình, ít nhiễm đạo ôn, nhiễm bạc lá và rầy nâu. Có năng suất trung bình vụ xuân 55 – 65 tạ/ha, vụ mùa 50 – 55 tạ/ha, hạt gạo trong, không bạc bụng, cơm mềm, dẻo.
Sử dụng giống ngắn ngày sẽ bớt được số lần phun thuốc BVTV, tiết kiệm chi phí thuốc, tiết kiệm lao động, giảm nguy cơ ôi nhiễm môi trường; có thêm quỹ thời gian để làm cây vụ đông sớm, góp phần tích cực cho việc chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng.
Hải Ninh