Giống đậu tương Đ2101 cho năng suất cao - ảnh: Hải Ninh Xã Nhân Huệ là một xã thuần nông thuộc thị xã Chí Linh, xã hiện có hơn 2700 nhân khẩu, với hơn 600 hộ gia đình lấy nông nghiệp làm nghề chính. Những năm qua, với sự nhạy bén, năng động trong việc làm kinh tế, bà con nông dân trong xã đã khai thác triệt để diện tích đất nông nghiệp như: cấy lúa và trồng các loại cây rau màu như: đậu tương, ngô, cà rốt, bắp cải...nên đời sống của nhân dân trong xã ngày càng phát triển.
Cây đậu tương là cây trồng truyền thống của bà con nông dân xã Nhân Huệ, việc trồng đậu tương đã có từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, năm 1986 người dân trong xã bắt đầu trồng đại trà với quy mô lớn. Song phải đến những năm gần đây, do bà con nông dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật canh tác, cây đậu tương đã thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao, làm giàu cho bà con nhân dân trong xã.
Ông Phan Văn Tính, chủ nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp cho biết: trước kia, bà con nông dân trong xã trồng các giống đậu tương truyền thống nên năng suất thấp, chất lượng không cao, từ năm 2008 đến nay, bà con đã trồng thử nghiệm các giống đậu tương mới như: Đ2101 của Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm (năm 2009) và ĐT 2008, ĐT 20 do Trung tâm Ứng dụng TBKH triển khai ở vụ xuân năm 2011 cùng với các giống đậu tương được bà con trồng đại trà là DT84, DH4 cho năng suất ổn định.
Vụ xuân 2009, giống đậu tương Đ2101 đã được triển khai mô hình xuất trên đất bãi ven sông tại xã Nhân Huệ, huyện Chí Linh. Kết quả sản xuất cho thấy, đây là giống có tiềm năng năng suất cao, đạt từ 80-100kg/sào, cá biệt có hộ gia đình đạt 120kg/sào với thời gian sinh trưởng là 90 - 100 ngày.
Vụ xuân năm 2011, giống đậu tương ĐT 2008, ĐT 20 được triển khai tại xã với diện tích 4ha. Giống có năng suất cao, đạt từ 80-100 kg/sào, thời gian sinh trưởng từ 95-105 ngày (do vụ rét kéo dài nên bà con nông dân trồng muộn hơn so với dự kiến).
Cả 3 giống đậu tương Đ2101, ĐT 2008, ĐT20 đều có ưu điểm hơn các giống địa phương như: cây khỏe, cứng, chống đổ tốt, chiu hạn và chịu rét tốt, chăm sóc như các giống đậu tương được trồng đại trà trong xã. Đặc biệt, 3 giống đậu tương cho năng suất cao hơn so với các giống địa phương DH4, DT84 từ 10-20kg/sào (Giống đậu tương được trồng đại trà tại địa phương là DH4, DT 84 cho năng suất khoảng 80-90kg/năm).
Xã Nhân Huệ phần lớn diện tích là đất bãi ven sông, nên 3 giống: ĐT 2008, ĐT 20, Đ 2101 thích hợp cho việc trồng vụ xuân. Vì thế, bà con nông dân trong xã hy vọng, trong các vụ xuân tiếp theo, các giống mới này tiếp tục được triển khai.
Vụ xuân vừa qua, gia đình ông Trần Văn Đôi, trồng 6 sào đậu tương gồm có các giống ĐT 2008, DT84, thu được từ 80-100 kg/1 sào, bán với trung bình từ 13.000-14.000 đồng/kg, trừ chi phí giống, thuốc bảo vệ thực vật, gia đình ông thu lãi trên dưới 8 triệu đồng.
Cây đậu tương tại xã Nhân Huệ được trồng 3 vụ trong năm, vụ xuân trồng 50ha, vụ hè 35 ha, vụ thu đông do bà con trồng rau xanh và các loại cây khác nên diện tích trồng đậu tương chỉ còn 10ha. Các giống đậu tương mới ĐT 2101, ĐT 2008, ĐT 20 cho năng suất từ 80-100kg/sào, DH4, DT84 cho năng suất từ 80-90 kg/sào. Với giá bán hiện nay dao động trong khoảng từ 13 đến 14.000 đồng/kg, trừ mọi chi phí, bà con vẫn có lãi gần từ 1,1 đến 1,2 triệu đồng/sào, tính chung lãi gần 32 triệu đồng/ha/1 vụ. Khi thu hoạch đậu tương, bà con nông dân không sử dụng phương pháp thủ công dùng gậy tách hạt đậu tương như trước kia mà thay thế bằng việc sử dụng máy tuốt hạt đậu tương nên việc thu hoạch được nhanh, gọn, sạch.
Hiệu quả của giống đậu tương mới tại xã Nhân Huệ đã mở ra một triển vọng mới cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp. Cây đậu tương không chỉ cho thu nhập cao hơn một số loại cây khác mà nó còn là loại cây có tác dụng cải tạo đất rất tốt, phù hợp với nhiều loại đất, lại không phụ thuộc nhiều vào nguồn nước. Cây đậu tương trồng tại xã Nhân Huệ đã thể hiện ưu thế rõ rệt: chi phí đầu tư thấp, tranh chấp được thời vụ, trồng quanh năm, ít tốn công lao động và giá sản phẩm ổn định.Việc triển khai các đề tài trồng đậu tương của Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm; Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học trên đất Nhân Huệ đã không chỉ tạo ra vùng sản xuất hàng hoá tập trung, cho năng suất cao mà còn làm thay đổi nhận thức canh tác, phương thức sản xuất của bà con nông dân. Đặc biệt, trong việc nhạy bén làm giàu, hiện nay bà con nhân dân trong xã không chỉ trồng đậu tương mà còn chuyển đổi đất bãi trồng 35 ha cà rốt, 30ha cà chua, rau cải, bắp cải...
Ông Phan Văn Tính, chủ nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp cho biết: trước kia, bà con nông dân trong xã trồng các giống đậu tương truyền thống nên năng suất thấp, chất lượng không cao, từ năm 2008 đến nay, bà con đã trồng thử nghiệm các giống đậu tương mới như: Đ2101 của Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm (năm 2009) và ĐT 2008, ĐT 20 do Trung tâm Ứng dụng TBKH triển khai ở vụ xuân năm 2011 cùng với các giống đậu tương được bà con trồng đại trà là DT84, DH4 cho năng suất ổn định.
Vụ xuân 2009, giống đậu tương Đ2101 đã được triển khai mô hình xuất trên đất bãi ven sông tại xã Nhân Huệ, huyện Chí Linh. Kết quả sản xuất cho thấy, đây là giống có tiềm năng năng suất cao, đạt từ 80-100kg/sào, cá biệt có hộ gia đình đạt 120kg/sào với thời gian sinh trưởng là 90 - 100 ngày.
Vụ xuân năm 2011, giống đậu tương ĐT 2008, ĐT 20 được triển khai tại xã với diện tích 4ha. Giống có năng suất cao, đạt từ 80-100 kg/sào, thời gian sinh trưởng từ 95-105 ngày (do vụ rét kéo dài nên bà con nông dân trồng muộn hơn so với dự kiến).
Cả 3 giống đậu tương Đ2101, ĐT 2008, ĐT20 đều có ưu điểm hơn các giống địa phương như: cây khỏe, cứng, chống đổ tốt, chiu hạn và chịu rét tốt, chăm sóc như các giống đậu tương được trồng đại trà trong xã. Đặc biệt, 3 giống đậu tương cho năng suất cao hơn so với các giống địa phương DH4, DT84 từ 10-20kg/sào (Giống đậu tương được trồng đại trà tại địa phương là DH4, DT 84 cho năng suất khoảng 80-90kg/năm).
Xã Nhân Huệ phần lớn diện tích là đất bãi ven sông, nên 3 giống: ĐT 2008, ĐT 20, Đ 2101 thích hợp cho việc trồng vụ xuân. Vì thế, bà con nông dân trong xã hy vọng, trong các vụ xuân tiếp theo, các giống mới này tiếp tục được triển khai.
Vụ xuân vừa qua, gia đình ông Trần Văn Đôi, trồng 6 sào đậu tương gồm có các giống ĐT 2008, DT84, thu được từ 80-100 kg/1 sào, bán với trung bình từ 13.000-14.000 đồng/kg, trừ chi phí giống, thuốc bảo vệ thực vật, gia đình ông thu lãi trên dưới 8 triệu đồng.
Cây đậu tương tại xã Nhân Huệ được trồng 3 vụ trong năm, vụ xuân trồng 50ha, vụ hè 35 ha, vụ thu đông do bà con trồng rau xanh và các loại cây khác nên diện tích trồng đậu tương chỉ còn 10ha. Các giống đậu tương mới ĐT 2101, ĐT 2008, ĐT 20 cho năng suất từ 80-100kg/sào, DH4, DT84 cho năng suất từ 80-90 kg/sào. Với giá bán hiện nay dao động trong khoảng từ 13 đến 14.000 đồng/kg, trừ mọi chi phí, bà con vẫn có lãi gần từ 1,1 đến 1,2 triệu đồng/sào, tính chung lãi gần 32 triệu đồng/ha/1 vụ. Khi thu hoạch đậu tương, bà con nông dân không sử dụng phương pháp thủ công dùng gậy tách hạt đậu tương như trước kia mà thay thế bằng việc sử dụng máy tuốt hạt đậu tương nên việc thu hoạch được nhanh, gọn, sạch.
Hiệu quả của giống đậu tương mới tại xã Nhân Huệ đã mở ra một triển vọng mới cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp. Cây đậu tương không chỉ cho thu nhập cao hơn một số loại cây khác mà nó còn là loại cây có tác dụng cải tạo đất rất tốt, phù hợp với nhiều loại đất, lại không phụ thuộc nhiều vào nguồn nước. Cây đậu tương trồng tại xã Nhân Huệ đã thể hiện ưu thế rõ rệt: chi phí đầu tư thấp, tranh chấp được thời vụ, trồng quanh năm, ít tốn công lao động và giá sản phẩm ổn định.Việc triển khai các đề tài trồng đậu tương của Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm; Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học trên đất Nhân Huệ đã không chỉ tạo ra vùng sản xuất hàng hoá tập trung, cho năng suất cao mà còn làm thay đổi nhận thức canh tác, phương thức sản xuất của bà con nông dân. Đặc biệt, trong việc nhạy bén làm giàu, hiện nay bà con nhân dân trong xã không chỉ trồng đậu tương mà còn chuyển đổi đất bãi trồng 35 ha cà rốt, 30ha cà chua, rau cải, bắp cải...
Nguyễn Thị Thuận
Trung tâm Thông tin KHCN và Tin học Hải Dương
Trung tâm Thông tin KHCN và Tin học Hải Dương