Sản lượng cá Chình trên thế giới ước tính khoảng 130.000tấn/năm, trị giá khoảng 1,3 tỷ USD. Phần lớn sản phẩm được sản xuất từ các nước Châu á, trong đó Trung Quốc, Nhật và Đài Loan là những nước sản xuất chủ yếu. Thị trường tiêu thụ cá chủ yếu là Nhật chiếm 60% tổng sản lượng. Đây là loài cá nước ngọt được ưa thích nhất ở Nhật.
Cá Chình là loài có tốc độ sinh trưởng nhanh trong điều kiện khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ thích hợp từ 23-280C. Nếu nhiệt độ cao hay thấp quá vượt khỏi mức thích hợp sẽ làm cá giảm ăn, sinh trưởng kém, hoạt động chậm và có thể gây chết. Trong điều kiện nuôi lý tưởng thì cá có thể đạt kích cỡ thương phẩm (150-200g) trong thời gian từ 12-18 tháng, tốc độ sinh trưởng rất khác nhau tuỳ theo điều kiện chăm sóc.
Có thể nuôi thương phẩm cá Chình trong ao đất nhưng phải xây dựng ao trên nền đất cứng. Người ta còn dùng vôi lát nền đáy ao nhưng chi phí xây dựng ao sẽ cao. Kích cỡ ao sử dụng nuôi cá chình là 0,1-0,5ha, độ sâu của nước từ 1,0-1,5m. Mật độ nuôi có thể đạt 20 tấn/ha. Nếu áp dụng nuôi cá Chình trong ao thì địa điểm chọn nuôi cá cần phải có nguồn nước cung cấp ổn định và không bị ngập lụt. Nguồn nước có chất lượng tốt như không có mầm bệnh hay các hoá chất độc và đảm bảo pH từ 7,0-8,0. Nếu nước có độ pH thấp thì không thể dùng để nuôi cá Chình được. Kết cấu của ao có độ nghiêng sẽ thuận lợi cho việc cấp và thoát nước.
Hầu hết sản lượng cá Chình ở Châu Âu là từ việc nuôi trong hệ thống bể sử dụng nước quay vòng. Trong điều kiện nuôi cá Chình thâm canh trong bể thì yêu cầu về chọn địa điểm đặt bể không bị khống chế nhưng tốt nhất nên dùng hệ thống nước quay vòng qua lọc sinh học để đảm bảo chất lượng nước. Ương giống cá Chình tốt nhất là thực hiện trong bể sau đó mới chuyển ra nuôi thương phẩm trong bể hoặc trong ao. Thông thường cá được nuôi thương phẩm trong bể có dung tích 1.000-20.000 lít với hệ thống nước chảy quay vòng. Đặc biệt yêu cầu đối với việc sử dụng nước quay vòng thì nhất thiết phải qua lọc để loại bỏ những yếu tố gây độc cho cá nhằm duy trì chất lượng nước tốt. Mật độ nuôi trung bình trong bể là 80kg/m3.
Cá Chình có hiệu quả sử dụng thức ăn rất cao, hệ số chuyển đổi thức ăn của cá có thể đạt 1,5-2,0:1(kg thức ăn/kg tăng trọng). Cá nhanh chóng ăn thức ăn công nghiệp ngay khi thả vào hệ thống nuôi. Có rất nhiều loại thức ăn có thể sử dụng để nuôi cá chình, thức ăn phù hợp nhất với cá chình là thức ăn tươi, là loại thức ăn dễ kiếm và rẻ tiền, tỷ lệ cho ăn từ 10-25% tuỳ giai đoạn; nếu là thức ăn công nghiệp thì đảm bảo phải có độ đạm cao. Tần suất cho ăn vài lần trong một ngày đảm bảo cá ăn đủ, nhanh lớn.
Cá Chình là loài có nhu cầu về ôxy cao, do vậy trong quá trình nuôi phải thường xuyên cung cấp đủ ôxy hoà tan cho cá bằng máy quạt nước hay máy thổi khí. Thường xuyên có chế độ thay nước hay trao đổi nước để duy trì chất lượng nước trong ao. Các yếu tố môi trường ao nuôi như: pH, ôxy hào tan, nhiệt độ nước, NO2- và NO3- tổng số cần được kiểm tra thường xuyên.
Cá Chình (Anguilla mamorata) đã được nhập về và thử nghiệm nuôi ở Việt Nam từ năm 2000, có khả năng sinh trưởng tốt và thích nghi với điều kiện môi trường khí hậu ở Việt Nam. Hiện nay, cá Chình đang được nuôi trong lồng bè dọc sông Thạch Hãn - Quảng Trị và nuôi trong hệ thống bể lọc sinh học tại Trung tâm Quốc gia giống thuỷ sản nước ngọt miền Bắc, xã Thạch Khôi, thành phố Hải Dương. Kết quả cá sinh trưởng và phát triển tốt, và bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.
KS. Vũ Văn Tân